Các di tích huyện Kim Động

 1. ĐỀN ĐÀO XÁ

Thôn Đào Xá cùng với hai thôn Ngô Xá và Vĩnh Hậu hợp thành xã Vĩnh Xá. Đây là một thôn lớn có cả đình, chùa, miếu, đền do cư dân theo đạo Phật và  một nhà thờ của đạo theo Thiên chúa giáo.

Đền Đào Xá có tên xưa là đền Sướng Thiện, là Tam Giáo Động, được xây dựng ở đầu thôn trên một khu đất cao, thoáng mát từ thập niên đầu thế kỷ XIX. Theo các cụ cao tuổi nhất ở đây kể lại, khoảng năm 1896, cụ Từ trông coi đèn nhang đã sang đền Bạch Mã thuộc huyện Phú Xuyên tỉnh Hà Đông cũ xin tên hèm để thờ, đặt tên cho đền là Sướng Thiện. Từ đó nhân dân trong vùng tìm đến đây lễ bái cầu phúc, hướng thiện và xin thuốc nam về chữa bệnh.

Đền được xây dựng theo kiến trúc điêu khắc thời Nguyễn muộn có vòm cuốn bê tông và hình khối nội công ngoại quốc. Đến năm 1929 , nhân dân lại đóng góp công sức và tiền của tu tạo lại đền cho bề thế, khang trang hơn. Khi hội Tam Thánh ra đời, đền thờ Phật – Tiên – Thánh, 3 vị giáo tổ và thờ vọng những vị anh hùng dân tộc đã có công cầm quân chống ngoại xâm như Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão.  Tên đền Sướng Thiện hay Tam Giác Động nói lên ý tưởng và tâm nguyện về điều thiện, hành động theo điều thiện. Sau này, tên đền được gọi theo tên thôn: Đền Đào Xá. Đào chính là tên một dòng họ có người đến khai phá vùng đất này sớm nhất và cũng là họ phát triển đông đúc nhất thời ấy.

Thời kỳ 1939 – 1945 Đảng ta vận động đấu tranh cách mạng trong sự khủng bố, lùng sục gắt gao của chính quyền thực dân đền Đào Xá là một trong những cơ sở cất giấu tài liệu của Đảng bộ Hưng Yên. Trong cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 nhiều cuộc mít tinh hội họp lớn của xã đã được tổ chức tại đền. Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp diễn ra ác liệt, vùng đất này từng có thời gian bị địch chiếm đóng, đền Đào Xá lại là nơi cán bộ ta đặt chân an toàn để phát triển phong trào đóng vai người đến đền cúng lễ, khi lại là người lên đền xin lá thuốc về chữa bệnh cho người nhà. Trong đền có hầm bí mật nuôi giấu cán bộ. Hòn Non bộ đắp nổi giữa hồ nước trong khuôn viên với mục đích cất giấu tài liệu  nên được tạo dáng nhiều hang lạch ăn sâu vào giữa khối đá giả sơn trông lạ mắt mà kín đáo.

Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, Bộ Tư lệnh Quân khu III đã về đây mở Hội nghị Quân chính bàn việc chống chiến tranh phá hoại của địch và các chủ trương biện pháp chi viện cho chiến trường miền Nam. Tiếp đó, Bộ Y tế  lại chọn đền Đào Xá làm địa điểm sơ tán cho xí nghiệp Dược phẩm.

Đền Đào Xá còn lưu giữ được nhiều hiện vật quý, ngoài Hòn Non bộ xây đắp công phu, phải kể đến 24 pho tượng mỗi pho đều có vẻ hấp dẫn riêng. Nhiều đồ tế tự có giá trị điêu khắc như pho kiệu Ngọc Bộ, ngai, cửa võng, câu đối cùng với nhiều cổ vật quý hiếm nh lọ độc bình, lọ hoa, choé, bát hương…

Đền Đào Xá được Nhà nước công nhận Di tích lịch sử và nghệ thuật cấp quốc gia theo Quyết định số 1570 ngày 5/9/1989 của Bộ Văn hoá và Thông tin.

2. ĐỀN VÀ LĂNG VŨ TIÊN CÔNG

Di tích được đặt theo tên của vị thần được nhân dân tôn thờ là Vũ Tiên Công. Cả đền và lăng đều được xây dựng ở thôn Tiên Cầu, xã Hiệp Cường ngay phía đông quốc lộ 39A rất thuận lợi cho việc tổ chức lễ hội và tham quan, cúng lễ của khách thập phương. Theo văn bia ghi thần tích hiện còn lưu giữ tại đây, khu lăng và đền tưởng niệm ngài  Vũ Đình Trác tức Vũ Tiên Công là một quan đại thần dựới triều Lê. Truyền thuyết ở đây kể rằng các bậc sinh thành ra Vũ Đình Trác nguyên là người làng Mộ Trạch huyện Bình Giang tỉnh Hải Dương – nơi đã sinh ra 36 Tiến sĩ, trong đó, số người đỗ Tiến sĩ thuộc dòng họ Vũ nhiều hơn cả. Do những biến động về kinh tế chính trị và xã hội, nhiều người dân ở Mộ Trạch đã phải di tán tới nhiều nơi, trong đó có một gia đình họ Vũ Đình tới định cư ở xã Tiên Cầu. Tại đây ông bà đã sinh ra một người con trai đặt tên là Vũ Đình Trác.

Thần tích ghi nhận ông là ngựời thông minh ham học,  đặc biệt là võ nghệ rất siêu việt được bạn bè và nhân dân địa phương kính nể. Lớn lên, Vũ Đình Trác sớm trở thành một nhà cầm quân có uy tín thời Hậu Lê. Với những chiến tích trong việc bảo vệ đất nước, bảo vệ triều chính, Vũ Đình Trác sớm trở thành một đại thần của triều đình. Năm 1740, niên hiệu Cảnh Hưng 35 (Cảnh Hưng tam thập ngũ niên tuế thứ) ông được phong Đặc Tiến Phụ Quốc Thượng Tướng Quân . Sau đó 4 năm (tức năm 1744), do lập được nhiều chiến công hiển hách, ông được triều đình ra sắc chỉ, chuẩn bị vàng bạc cho nhân dân địa phương xây dựng lăng và đền tạ ơn ông. Có thể nói đây là một trong những trường hợp khá độc đáo. Công trình được xây dựng trong thời gian người được tôn vinh còn sống và đang tại chức. Chính điều ấy minh chứng cho sự trung thành hết mực của ông với đất nước và càng cổ vũ ông hơn nữa trong công việc để xứng đáng với sự quan tâm của triều đình.

Năm 1786, Vũ Đình Trác lâm bệnh tạ thế. Theo nguyện vọng của địa phương, triều đình đã cho đưa thi hài ông về chôn cất tại Tiên Cầu. Phần mộ của ông được xây  lăng cách đền chùng 300m. Trước công lao của ông, nhân dân địa phương đã gọi ông bằng cái tên kính trọng “ Vũ Tiên Công” và từ đó khu lăng, đền cũng được gọi là lăng đền Vũ Tiên Công. Công lao của Vũ Tiên Công và sự nghiệp của ông được nhân dân địa phương luôn luôn ghi tạc và họ đã tôn ông là Thành Hoàng của xã. Cuốn thần tích cùng với tiểu sử của ông được lưu truyền mãi trong lòng dân từ thế hệ này sang thế hệ khác. Hàng năm cứ vào ngày 1/3 âm lịch, địa phương tổ chức lễ hội để tưởng niệm Vũ Tiên Công.

Chính với niềm tự hào sâu sắc về tấm gương Đức Tiên Công mà mảnh đất Tiên Cầu đã phát huy được vai trò của mình trong quá trình lịch sử. Thời kỳ Tiền khởi nghĩa, nhiều cán bộ của Đảng đã về đây hoạt động và xây dựng cơ sở cách mạng. Nhân dân Tiên Cầu không sợ gian khó nguy hiểm, tạo điều kiện tốt nhất cho cán bộ đến hoạt động an toàn. Được sự đùm bọc cho chở của nhân dân, Đảng ta đã xây dựng được cơ sở vững mạnh ở Tiên Cầu.

Trong cuộc Tổng  khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 lực lượng vũ trang và nhân dân Tiên Cầu đã tập trung ở đền, tiến vào giành chính quyền ở huyện lỵ Kim Động và tỉnh lỵ Hưng Yên. Sau khi đã đập tan chính quyền cũ, nhân dân Tiên Cầu đã nhiều lần tổ chức mít tinh ở khu đền để biểu dương lực lượng quần chúng, chào mừng Chính phủ cách mạng lâm thời.

Năm 1946 thực dân Pháp tráo trở xâm lược nước ta lần thứ 2. Dưới sự lãnh đạo của tổ chức Đảng, đội tự vệ Tiên Cầu được nhanh chóng thành lập. Nhân dân đã cùng đội tự vệ đào hào, đắp ụ xẻ đường cản bước tiến của giặc. Trong 9 năm kháng chiến, Tiên Cầu luôn là điểm nóng, du kích địa phương đã phối hợp với bộ đội đánh nhiều trận ác liệt trên đường 39A, khu lăng và đền được chọn là nơi mai phục của quân ta. Sau các cuộc chiến đấu với thực dân Pháp ở các vùng phụ cận như Dốc Lã, Cầu Ngàng bộ đội ta lại rút về khu đền. Có thể nói trong kháng chiến trường kỳ, khu vực lăng và đền Vũ Tiên Công luôn được chọn làm vị trí ém quân và xuất kích của quân ta có độ đảm bảo bí mật cao nhất.

Là nơi diễn ra nhiều trận đụng độ quyết liệt với địch nên có thể nói Tiên Cầu là một trong số điểm hứng chịu nhiều bom đạn nhất trong huyện. Khu đền và lăng Vũ Tiên Công bị địch bắn phá ác liệt nhiều lần. Đặc biệt trong trận càn quét năm 1952, chúng đã cướp đi 2 pho tượng đá và một số đồ tế tự quý. Dù vậy, đây vẫn còn giữ được nhiều hiện vật cổ độc đáo như một ban thờ đá dài 1,6m rộng 0,9m tạo dáng theo hình sập bằng chân quỳ da cá, 01 lư hương bằng đá cao 0,3m, đường kính rộng 0,25m, hai sườn  lư được đục đẽo gọt rũa tạo hình đôi đầu ghê chầu vọng, một bia cũng bằng đá khối cao 1,8m rộng 0,72m dựng năm 1774 ghi công đức đóng góp tu sửa di tích. Khu lăng và đền còn được một quần thể tượng đá tạo nên những nét nhấn thu hút sự chú mục của khách thập phương. Đó là sáu vệ binh tạo từ đá đứng uy nghiêm trên bệ cao 1,86m; hai voi dáng to khoẻ mà đĩnh đạc thư thái; hai ngựa chiến với yên cương trong tư thế trận tiền; hai chó đá ngồi như đang quan sát canh chừng kẻ địch.

Đền và Lăng Vũ Tiên Công đã được nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử và nghệ thuật cấp quốc gia theo Quyết định số 97 ngày 21/11/1992 của Bộ Văn hoá – Thông tin.

3. CHÙA PHƯƠNG TÒNG

Chùa có tên chữ là Tam Cương tự, nhưng thường được gọi là chùa Phương Tòng hoặc gọi nôm la là chùa Phương, thuộc xã Hùng An.

Theo lời các vị cao tuổi kể lại thì xưa kia, khu đất này rất trũng nhưng lại nổi lên 3 gờ đất cao. Cho đó là điểm lành, một sự mách bảo thiêng liêng từ tiềm thức nên bà con mới dựng lên ngôi chùa để thờ “Thiên, Địa, Nhân”. Còn có sự duy danh định nghĩa được bà con nhắc đến thì Phương Tòng  là đất biểu tượng của tinh thần cao thượng, ngay thẳng, gan góc trước gió bão như cây tùng, cây bách. Chùa được xây dựng vào thời Lê Trung Hưng  trên khu đất rộng phía tây của làng, sát chân đê, cổng chùa và Tam Quan hướng thẳng ra sông Hồng gió lộng quanh năm. Tuy chùa được xây dựng kiên cố, bề thế nhưng qua thời gian với nhiều phen bão gió lụt lội, giặc dã lên đã bị xuống cấp nhiều. Cuối năm 1934 bà con địa phương góp công của xây dựng với quy mô như ngày nay.

Như mọi ngôi chùa khác trên đất nước ta, chùa Phương Tòng là nơi thờ Phật, giảng thuyết Phật học, quảng bá mở rộng đạo Phật, hướng con người vào điều lành, điều thiện, tránh xa điều ác. Chùa chẳng những đẹp về cảnh sắc thiên nhiên, mà còn là cơ sở của tổ chức cách mạng có giá trị lịch sử.

Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, hai chiến sĩ cách mạng là Chu Văn Tập và Lương Hiền từ hoạt động ở phía tây nam Hưng Yên đã chuyển địa bàn hoạt động lên chùa Phương Tòng, Hùng An, Kim Động. Hai ông đã chọn nơi hoạt động đầu tiên vào gia đình bà Thứ Thoả - một người sớm được hai ông giác ngộ cách mạng. Sau đó, để đảm bảo hơn cho công tác hoạt động cách mạng, hai ông đã chọn nơi vừa kín đáo vừa tĩnh lặng, đó là chùa Phương với sự giúp đỡ của vị sư trụ trì yêu nước là sư Dưỡng. Hai ông đã dựa vào chùa để hoạt động, gây ảnh hưởng cách mạng rộng rãi ra các vũng xung quanh. Được cơ sở bảo vệ chu đáo, Chu Văn Tập và Lương Hiền sau này đã trở thành cán bộ chủ chốt của chính quyền cách mạng.

Năm 1946 cuộc kháng chiến bùng nổ, chùa Phương Tòng lại được chọn làm cơ sở hoạt động an toàn của Đảng bộ huyện và Tỉnh. Tại đây, đồng chí Chủ tịch lâm thời tỉnh Hưng Yên đã triệu tập lớp học quân sự. Trong thời gian lớp học quân sự diễn ra tại chùa đã được sự giúp đỡ nhiệt thành của các vị sư trụ trì (sư Dưỡng, sau đó là sư Mùi) và vãi Khánh. Sau đó chùa Phương còn được chọn làm địa điểm tổ chức Đại hội của chi bộ xã Hùng An, là nơi đỡ đầu của trung đội du kích Phương Tòng.

Cuối năm 1951, đầu năm 1952, nhà chùa đã đào trong khu nội tự 5 hầm bí mật để đón phân đội bộ đội tỉnh Hưng Yên về ở tại chùa hỗ trợ cho phong trào chién tranh du kích địa phương. Năm 1953, theo yêu cầu của tổ chức, sư Mùi được điều lên công tác ở vùng Khoái Châu, Hoà thượng Đăng Thanh Khiết về thay. Cũng năm này, thực dân Pháp đã tiến hành càn quét bao vây chùa. Trong tình hình khó khăn ấy, vãi Khánh đã ra càn phá, ngăn bước tiến công của địch để chiến sĩ ta có đủ thời gian đối phó. Nhìn chung trong quá trình vận động cách mạng cũng như trong kháng chiến, chùa Phương Tòng luôn là cơ sở vững vàng,  tạo điều kiện cho mọi hoạt động cách mạng và chiến đấu chống Pháp của địa phương thắng lợi to lớn.

Từ năm 1968 đến năm 1975, chùa Phương Tòng thường được chọn làm địa điểm tổ chức các hội nghị do cấp trên triệu tập, trong đó có một hội nghị quan trọng ủng hộ phong trào ra đường chống đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai của Phật giáo miền Nam. Chùa còn là nơi Viên Đông y Trung ương sơ tán tránh bom đạn địch đồng thời phát triển được các hoạt động nghề nghiệp một cách an toàn.

Hiện vật được lưu giữ trong di tích chùa Phương Tòng còn khá nhiều. Trên Tam Quan còn có một tượng Phật bà toạ sơn cao 1,4m, 01 chuông đồng cao 0,8m đường kính 0,5m, đúc năm Minh Mệnh thứ 31. Tượng đặt trên bệ cao được tạo dáng rất đẹp. Hai tượng Kim Đồng và Ngọc Nữ cao 0,6m đứng hai bên tượng Phật bà. Bên trong có 21 pho tượng Phật ở Đại Bái và Thượng Điện. Các  pho tượng này đều làm ở thế ngồi cân đối hài hoà. Hai khánh thờ Đức Ông và Thánh Hiền, xung quanh khám đều có chạm hình hoa dây sơn màu mận chín; 14 câu đối, 6 bức đại tự, một khánh đồng đúc năm 1937 cao 0,8m rộng 1,1m. Tất cả các đồ thờ trên đã làm cho chùa thêm hấp dẫn bởi vẻ đẹp cổ kính và sự uy linh. Chùa  Phương Tòng được Nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia theo Quyết định công nhận 74 ngày 2/2/1993 của Bộ Văn hoá Thông tin.

4. ĐÌNH BỒNG CHÂU

Đình được gọi tên theo  tên thôn Bồng Châu xã Phú Cường. Đình thờ 15 vị đẳng thần thời Hùng Vương và Hai Bà Trưng. Lễ hội được mở tại đình vào các ngày 10/1, 13/3 và 10/11 âm lịch. Đình có kiến trúc theo kiểu chữ Công trên khu đất đẹp cac ráo thoáng mát giữa một bãi nổi sông Hồng rất thuận tiện cho thuyền bè qua lại.

Đầu tiên, đình được xây dựng ở giữa làng. Về sau do biến động về thiên nhiên, hàng năm nước lũ sông Hồng dâng cao cuốn lở đất nên đình được chuyển vào cuối làng giáp đê bối. Mặt tiền của đình quay về phía tây nam giáp sông Hồng, phía tây áp sát với khu dân cư, phía đông giáp đồng ruộng và thôn Kệ Châu 1, phía bắc là đồng ruộng. Theo truyền thuyết, đình Bồng Châu được xây dựng khá sớm. Theo sắc chỉ thời Tiền Lê, triều đình giao cho Thất Gia Trại lập miếu điện phụng thờ.

Cũng như những ngôi đình ở các làng xã khác, đình Bồng Châu vừa được coi là trụ sở để dân hội họp, bàn việc làng vưa là nơi thờ Thần Hoàng. Theo thần phả, đình Bồng Châu thờ 15 vị Đẳng thần có công với nước với dân,  được nhận sắc phong của triều đình; tuy nhiên, thần phả lưu lại chỉ thấy nói quê quán, ngày sinh, ngày mất, chức vụ của 6 trong số 15 vị đó.

Thần tích chép rằng: Bà Trần Hồng Nương, quê tại trang An Thái, huyện Thiên Bản phủ Nghĩa Hưng sinh được hai người con trai, tên là Phổ Hộ và Linh Lôi. Năm 40, nhà Hán đem quân sang  xâm lược nước ta, đứng trước tình hình đất nước có giặc ngoại xâm, Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa, ban hành chiếu chỉ kêu gọi nhân dân đứng lên chống quân xâm lược nhà Hán:  “Thư Châu huyện, mộ hữu văn võ khí tài anh hùng khả dĩ cự chỉ. Nam tướng nam binh, nữ tướng nữ binh, dẫn sai ứng tuyển dĩ thụ kì quan tước.” Nghe được chiếu chỉ, ba mẹ con bà bàn nhau ứng tuyển đội nghĩa quân của Hai Bà Trưng. Bà Hồng Nương tuy tuổi đã cao nhưng còn mạnh khoẻ. Bà tự mình vấn tóc lên vành khăn giả làm trang nam tử, cùng hai con trai đi vận động mộ quân. Chỉ một thời gian ngắn mẹ con bà vận động được trên hai nghìn người, tổ chức rèn luyện võ nghệ, giáo dục mọi người đồng tâm phù quốc. Sau đó mẹ con bà Hồng Nương dẫn đội quân của mình tới doanh trại của Hai Bà Trưng tại Hát Môn (Sơn Tây – Hà Tây ngày nay). Hai Bà Trưng phong cho hai ông Phổ Hộ và Linh Lôi chức Đô Chỉ Huy Sứ Tả Hữu Tướng Quân, phong cho bà Hồng Nương chức Nội Thị Phu Nhân, giữ bà ở lại đại bản doanh để chăm lo việc nước.

Sau khi sắp sếp lại quân ngũ, Bà Trưng giao cho hai ông đặc trắc đội thuyền binh tuần tiễu đề phòng quân giặc đánh sau lưng. Hai ông cầm quân lên đường. Tới địa phận Khoái Châu – Kim Động gặp một bến có bãi đất bồi rộng ( nay là Bãi Bồng Châu), thấy thế đất đẹp, địa hình thuận lợi cho việc đóng quân, hai ông cùng quân sĩ tuyển mộ thêm người tài, lập doanh trại tại chỗ, vừa canh tác vừa rèn luyện gươm đao. Sau khị giúp cho dân lập đồn trú, cắt cử người cai quản hương thôn, hai ông Hồi Đô theo lệnh của Hai Bà Trưng để cùng tướng lĩnh bàn kế sách tấn công, tiến đánh doanh trại Tô Định.

Cuộc đại chiến đã diễn ra. Quân của Hai Bà Trưng đã đánh tan quân giặc nhà Hán, chém đầu tướng giặc, giải phóng đất nước. Đây là thời kỳ độc lập đầu tiên của nước nhà. Hai Bà Trưng lên làm vua hiệu là Trưng Nữ Vương. Sau khi  lên ngôi ổn định triều chính, hai bà liền mở tiệc đại khai khánh hạ, khao thựởng ba quân theo đẳng cấp, đồng thời ra chiếu ban cho ba mẹ con bà Hồng Nương phần thực ấp tại quê cũ Nam Định đạo. Đang độ mùa đông, ba mẹ con bà đi trên một chiếc thuyền rồng dọc bờ biển để quan sát địa hình điền ấp. Đi đến núi An Từ, đột nhiên trời nổi lên một trận giông tố, mưa như trút nước, một giải mây vàng từ trên cao giáng vào sa giá. Nhân gian cho rằng ba mẹ con bà đã đồng bộ tòng vân về cõi Trời. Từ đó nhân dân địa phương lập đền thờ.

Đền triều Lê Đại Hành năm Thiện Phúc, ba mẹ con đều được thụ phong sắc Thần vì đã lập nhiều công lớn. Các sắc phong đều có nội dung: Thông minh khôn khéo, một lòng phò Vua giúp nước, bảo toàn bờ cõi. Khi ra trận tiến công vũ bão, chiến thắng oanh liệt, dũng mãnh phô trương thanh thế khiến quân thù khiếp vía. Các triều đại sau này đều có sắc phong ghi công ba vị Đại Vương Thượng Đẳng Thần, ban hành các quy chế ghi thức trong các ngày sinh, hoá và lễ hội. Hiện nay tại đình Bồng Châu còn giữ được 15 sắc phong của các triều đại trước.

Những năm thực dân Pháp cho quân chiếm đóng phía nam tỉnh Hưng Yên là giai đoạn khó khăn nhất của nhân dân Kim Động. Địch càn quét, bắn phá rất dã man. Đình Bồng Châu là nơi được cấp trên chọn đặt chạm giao liên giữ đường dây liên lạc giữa hai quân khu Tả và Hữu ngạn sông Hồng. Đây là nơi đón bộ đội vượt sông mỗi khi mở chiến dịch; cũng là nơi chuyển vũ khí, thương binh ta, tù binh địch ra khu an toàn. Từ năm 1951 đến năm 1954, đình Bồng Châu là nơi thường xuyên có các đơn vị thuộc Trung đoàn chủ lực 42 đến đóng quân mà không bị lộ bí mật vì được nhân dân một lòng che chở, giúp đỡ.

Một vinh dự khác được ghi nhận là ngày 7/11/1962, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã về Bồng Châu thăm hỏi tình hình làm thuỷ lợi và đời sống của bà con ngay tại đình làng. Trong kí ức của nhân dân Bồng Châu xã Phú Cường, nhất là các cụ đã có mặt trong buổi Thủ tướng Phạm Văn Đồng về thăm, còn in đậm hình ảnh thân thương của Lãnh tụ đối với đồng bào đồng chí ở vùng bãi xa khuất này.

Tại đình Bồng Châu còn lưu giữ nhiều hiện vật quý: Một kiệu bát cống sơn son thiếp vàng thời Hậu Lê, đòn kiệu đều trạm trổ đầu rồng, thân kiệu chạm trổ cách điệu hoa dây hình Long – Ly – Quy - Phượng, mặt hổ phù đuôi chạm hoa văn hình sóng cuộn; hai cỗ kiệu trung cũng chạm đường nét hoa văn cầu kì; tám cỗ long ngai chạm trổ tinh vi sơn son thiếp vàng: bốn cổ thuộc thời Lê; bốn cỗ thuộc thời Nguyễn; một hạc gỗ thời Lê còn giữ được nguyên vẹn đến thời nay; một quả chuông đúc năm Bính Thìn (1796) cao 1,50m, đường kính miệng 0,8m, nặng trên 1 tấn; năm bộ đỉnh, đài nến bằng đồng; một bộ quạt 5 chiếc gồm 1 quạt cái to 10 nan xoè rộng và 4 quạt ngà voi, mỗi quạt được tạo dáng bằng giấy nén trên nan ngà voi nặng 2kg một quạt. Ngoài ra còn một số đồ tế tự bằng gỗ quý khác

Đình Bồng Châu được Nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử và nghệ thuật cấp quốc gia theo Quyết định số 225 ngày 5/2/1994 của Bộ Văn hoá và Thông tin.

5. ĐỀN BÀ CHÚA MỤA

Đền được xây dựng tại làng Mụa tức thôn Cộng Vũ, xã Vũ Xá. Tên thường gọi từ xưa đến nay là đền thờ bà Chúa Mụa. Đền được xây dựng trên một vùng đất cao ráo, thoáng mát sát bìa làng, giữa hai cồn đất có tên gọi từ lâu đời là cồn Con Voi và cồn Nghiên Bút. Đền xây theo kiến trúc chữ Nhị, thờ bà Trần Thị Tư còn có tên Trần Thị Ngọc Am thứ phí chúa Trịnh Tráng. Mặt trước của đền quay về hướng tây nam có dòng sông Cửu An chạy dọc từ Ngàng về chợ Thi.

Đền được xây từ thế kỷ 17.Trải qua nhiều năm tháng liên tục có bão gió, lụt lội và chiến tranh tàn phá nên đền đã bị hư hại nhiều. Nhân dân đã góp công sức sửa chữa, tu tạo lại đền nhiều lần trong đó có 4 lần trùng tu vào thời nhà Nguyễn.

Theo văn bia và sắc phong cũng như theo lời người già kể lại sự tích bà Chùa Mụa được chép lại như sau:

Bà Trần Thị Tư sinh ngày 5 tháng 5 năm Canh Thìn (1580), có sắc đẹp lộng lẫy và đức tính chăm chỉ nông tang, bờ bãi lại có giọng hát bổng trầm, thánh thót như suối reo, chim hót. Một hôm trên đường cái quan, chúa Trịnh Tráng cùng quân quan đi kinh lý qua khu dân đang lao động. Nhà chúa bỗng nghe tiếng hát từ xa vọng lại. Tiếng hát làm ngơ ngẩn bề trên.  Hát rằng: “Tay cầm bán nguyệt xânh sang/ Hàng trăm thảo tặc lai hàng tay ta”.Chúa Trịnh Tráng bèn cho mời cho gái vừa hát vừa cắt cỏ dưới đồng lên hỏi chuyện. Cô thôn nữ vừa đẹp người, vừa hát hay lại đối đáp khẩu khí khác người, tỏ rõ sự nền nã mà kiêu sa thông tuệ. Chúa truyền rước nàng về Thăng Long và đổi tên nàng thành Ngọc Am.

Từ ngày về phủ Chúa, bà được giao công việc chăm lo đèn sách, lễ nghi và sắp đặt ngôi thứ cho các cung tần mỹ nữ trong nội phủ. Được nhà Chúa yêu dấu cải họ cho bà từ họ Trần thành họ Trịnh: Trịnh thị Ngọc Am.

Sau một thời gian, bà sinh con gái. Chúa Thượng hết mực yêu quý, đặt tên con gái là Trịnh Thị Minh và ban cho bốn đĩa vàng và một đĩa bạc làm vật gia bảo. Trời bắt tội, Công chúa Trịnh Thị Minh sớm lìa đời để lại nỗi thương xót tột độ cho bà Ngọc Am. Qúa đau khổ, bà muốn xa lánh thế tục nhiều hệ luỵ, oan trái nên đã xin Chúa Trịnh Tráng cho bà về quê xuống tóc ăn mày cửa Phật. Chúa Trịnh không thể giữ được bà nơi cung cấm, đã cho khai con sông nhánh đi qua làng Mụa để vận chuyển gỗ, đá xây sẵn cho bà một ngôi đền và một ngọn tháp. Ngôi đền có hai dãy nhà nhiều gian, ở giữa hai dãy nhà là ngọn tháp Cửu phẩm Liên Hoa, cao trăm bậc ghép nối bằng hàng trăm phiến đá, bốn góc tháp được kết dính chốt giữ bằng cốt chì và đồng. Từ khi rời phủ Chúa về tu ở làng, bà rất chăm chỉ tụng kinh niệm Phật. Bà còn cho tu sửa chùa chiền quanh vùng, giúp dân khai khẩn ruộng đất, khơi dòng đào sông, hướng dẫn cho dân làm lúa nước. Bà rất thương người, gặp ai hoạn nạn khó khăn, bà sẵn lòng làm phúc giúp gạo cho tiền, cho thuốc chữa bệnh.

Theo văn bia ghi lại thì tháp Liên Hoa được xâ ựn 3 năm mới song . Chúa Trịnh Tráng cho tuyển thợ đá giỏi từ nhiều nơi về xây tháp vừa tạc tượng bà ngay từ khi bà còn sống. Bà mất năm 68 tuổi sau 28 năm rời phủ Chúa về tu tại làng. Thi hài bà được mai táng tại chân tháp Cửu phẩm Liên Hoa. Đền thời tạo loạn, quân quận He nổi lên kéo qua làng Mụa đã cho dỡ đền, phá tháp lấy đồng chì rèn đúc vũ khí. Nhân dân đã cất dấu được tượng bà và các pho tượng đá cùng ngọn tháp hình nậm. Một thời gian sau, nhân dân lại sửa sang tu tạo ngôi đền và đưa tượng về thờ như cũ để tưởng nhớ công lao của bà. Bà Chúa Mụa mất ngày mùng năm tháng giêng, nên nhân dân lấy ngày đó làm ngày lễ hội thường niên.

Ngoài giá trị về văn hoá, đền Bà Chúa Mụa còn ghi dấu nhiều sự kiện trong quá trình phát triển đi lên của địa phương. Nơi đây là nơi hội họp bí mật của Đảng bộ địa phương thời kỳ địch o – ép, càn quét gay gắt nhất. Đền cũng là nơi các đơn vị thuộc Trung đoàn chủ lực 64 và các đại đội bộ đội địa phương tỉnh luân phiên về đóng quân, rèn cán.

Trong đền còn giữ được nhiều hiện vật quý: 3 tấm bia lớn: 1 bia niên hiệu Đức Long (1629-1634) ghi tiểu sử Bà Chúa Mụa, 1 bia “Trần tộc bia ký” ghi công đức của cộng đồng họ Trần, 1 bia ghi công đức chúa Trịnh Tráng cho xây đền và tháp; một bức đại tự lớn khắc 3 chữ Uy linh từ, dưới bức đại tự là bàn thờ đá có khắc 3 bức phù điêu Long cuốn thuỷ với hình tượng sóng nước, hoa lá rất tinh vi, nghệ thuật; hai câu đối sơn son thiếp vàng khắc chữ nổi:

“Tài cao nghĩa trọng, uy thế trấn sơn hà

Đức tích nhân tu, chúa cung sùng Phật đạo”

ĐẶc biệt quý là những pho tượng đá trong hậu cung: tượng bà Chúa Mụa, hai pho tượng thị vệ, hai pho Kim Đồng Ngọc Nữ, một phỗng đá, một bát hương đá, hai bát sứ thời Lê. Năm 1963 khi đào sông Cửu An - một công trình thuỷ lợi quan trọng của địa phương, dân công đã đào được đĩa vàng đĩa bạc  mà chúa Trịnh tặng cho mẹ con bà Trịnh Thị Ngọc Am chìm sâu dưới đáy giếng nước trước cửa đền.

Đền Bà Chúa Mụa đã được Nhà nứơc công nhận là Di tích nghệ thuật cấp Quốc gia theo Quyết định số 2233 ngày 26/6/1995 của Bộ Văn hoá – Thông tin.

6. ĐÌNH DUYÊN YÊN

Thôn Duyên Yên thuộc xã Ngọc Thanh có ngôi đình bề thế được gội theo địa danh là đình Duyên Yên hay đình Lở (tên nôm bà con quen gọi từ lâu đời). Đình xây dựng vào năm 1786, kiến trúc hình chữ Nhị trên khu đất rộng, cao ráo, có mặt tiền chính nam hướng ra đê sông Hồng, quanh năm bờ bãi dâu mầu xanh tốt. Đình thờ bốn vị thần: An Sinh Vương Trần Liễu. Trần Liễu sinh năm 1211, quê thuộc hương Tức Mạc, phủ Thiên Trường (tỉnh Nam Định ngày nay) thân phụ của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, người anh hùng dân tộc văn võ song toàn đã lập nhiều chiến công hiển hách trong 3 lần kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Ngày mồng 1 tháng 4 niên hiệu Nguyên Phong thứ nhất (1251) Trần Liễu qua đời thọ 41 tuổi. Trên núi An Phụ, huyện Kinh Môn và nhiều địa phương đã lập đền thờ và lấy ngày người mất làm ngày mở hội truyền thống, một tập quán tốt đẹp được duy trì từ nhiều thế kỷ.

Tại Đình Duyên Yên, từ văn tế đến văn bia, bia ký đều ghi chú ngày giỗ (18/10) và công đức của ngài. Dân vùng Duyên Yên thường trôi giạt đi kiếm sống ở nhiều nơi vì nạn vỡ đê, lụt lội và mất mùa. Đại vương rất thương dân, ngài bày cho dân đắp đê mỗi năm một vững chắc hơn, chiêu tập dân tản mác nhiều nơi trở về quê cũ làm ăn. Ngài còn lệnh cho chức dịch bản điạ cấp tiền bạc, ruộng đất để dân canh tác thoát khỏi cảnh đói khát, tha phương cầu thực nơi đất người. Nhờ có đức lớn của ngài mà lập nên ấp An Sinh, sau thành làng Duyên Yên đông đúc, trù phú. Ngày 18/10 hàng năm Duyên Yên mở hội làng để tôn vinh tưởng nhớ ngài. Theo lời kể lại từ nhiều năm ngày đó là ngày ngài phát lệnh chiêu tập dân về lập ấp, nhận thêm ruộng đất về cày cấy. Văn bia, văn tế đã được ghi chép với lời lẽ hết sức trân trọng suy tôn ngài là Anh Linh Hiển Ứng. An Sinh Vương sau đó còn được truy phong là Khâm Minh Đại Vương.

Còn ba vị thần khác có sự tích tóm tắt như sau: Đức Thiên Bồng Phong Lôi Đại Vương là một vị tướng có vóc dáng cao lớn, võ nghệ cao cường được An Sinh giao cho tập đội dân binh, dạy cho dân biết võ thuật và cách bài binh bố trận. Thời đó tất cả vương hầu, chức dịch lớn nhỏ đều phải thành lập đội dân binh dưới quyền, theo chính sách “tĩnh ư dân, động ư lính”, tức là lúc yên là người dân cày, khi có biến là người lính cầm vũ khí giữ làng; Đức Thiên Trung Quảng Tế Đại Vương là người đựoc An Sinh Vương giao cho việc dạy dân ấp cày cấy, biết cách phòng chống mưa bão, lụt lội, hạn hán, vượt qua những thử thách khắc nghiệt của một vùng chiêm chũng luôn bị thiên tai đe doạ. Đức Đại Vương là người am hiểu tứ thời, bát tiết, phong vũ hàn nhiệt nên người đã có công lớn trong việc mở mang nghề trồng trọt nên người đã có công lớn trong việc mở mang nghề trồng trọt, cấy cày ở vùng đất này thích hợp với thời tiết phong thuỷ; Quốc Vương Cương Vực Đại Vương là người được An Sinh Vương giao cho chăm lo việc học hành, lễ giáo của dân. Người có phong tháo hào hoa, khoan thai đĩnh đạc, thông hiểu sách sử của tiền nhân, dạy cho dân về trung hiếu tiết nghĩa, tam cương ngũ thường, được dân ấp kính trọng.

Sau này, trong kháng chiến chống thực dân Pháp, đình Duyên Yên, dù bị ép giữa hai gọng kìm đồn bốt của giặc Pháp là bốt Ngọc Đồng và bốt Dốc Lã nhưng vẫn có nơi thường xuyên diễn ra các hội nghị quan trọng của huyện và tỉnh, là nơi tập kết bộ đội chủ lực và du kích để đánh địch trên đường giao thông chiến lược 39A và đê sông Hồng trong các trận đánh phục kích chống địch càn quét từ phía thị xã Hưng Yên và từ sông Hồng đổ quân lên.

Duyên Yên là đất hiếu học, có truyền thống yêu nước từ xa xưa nên sau này đã sớm biết tiếp thu ánh sáng cách mạng do Đảng Cộng Sản và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soi rọi tới. Nhiều cán bộ từ Mặt trận Việt Minh thời Tền khởi nghĩa sau này đã trở thành cán bộ cao cấp của Đảng hoạt động trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế quản lý Nhà nước, có người được giao chức trách quan trọng là Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung Ương, Trưởng ban Tổ chức Trung ương (đồng chí Trần Đình Hoan).

Ngày mồng Hai Tết Nguyên đán 1999, tại đình Duyên Yên, đồng chí Lê Khả Phiêu, Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng đã có cuộc chò truyện với bà con và lãnh đạo địa phương. Ở vương cảnh trứơc cửa đình, đồng chí Lê Khả Phiêu đã trồng một cây đa lưu niệm.

Tại di tích đình Duyên Yên hiện còn lưu giựcd đựơc một số hiện vật quý: hiện vật bằng đá có 2 nghê, 2 phỗng, 3 bia; bằng đồng có 2 bát hương, 3 bộ tam sự; bằng gỗ chạm khắc son thiếp bạc vàng có 4 cỗ ngai, 2 đôi hạc, 1 bộ chấp kính và nhiều đồ thờ khác.

Đình Duyên Yên được Nhà nước xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia theo Qyết định số 78 ngày 23/8/2004 của Bộ Vă hoá – Thông tin. Làng mở hội tại đình vào ngày 18 tháng 10 hàng năm, lễ hội được đông đảo bà con trong vùng tìm đến tham dự. Tại sân đình và trên bãi cỏ ven đê trứơc đình có những trò chơi dân gian được truyền lại từ nhiều năm như: đánh đu, đánh chọi gà, thi vật…

 

7. ĐÌNH ĐỒNG HẠ

          Đình Đồng Hạ là ngôi đình được gọi tên theo tên làng. Thôn Đồng Hạ nay thuộc xã Đức Hợp, một trong số xã đông dân cư và phát triển trên nhiều lĩnh vực kinh tế xã hội của huyện, được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Đình thờ  Lưu Lang Đại Vương, hàng năm mở hội vào ngày 9/9.

          Theo thần tích, sắc phong thì Lưu Lang Đại Vương  là người có công lớn cùng Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân. Sự tích được ghi chép và truyền khẩu lại như sau:

          Trên quê hương Đinh Bộ Lĩnh có một Tù trưởng họ Lưu, vốn cả hai vợ chồng đều là người hiền lành, được cư dân và họ mạc hết lòng yêu mến, chỉ phiền một nỗi đã lớn tuổi mà vẫn muộn đường con cái. Vợ chồng Lưu Tù trưởng đi khắp nơi, giúp của, giúp công cưu mang kẻ khó, tu tạo đền miếu, đình chùa, sớm tối đèn nhang tụng niệm để mong có được mụn con nối dõi.

          Một thời gian sau, phu nhân mang thai rồi sinh hạ được một cậu con trai khôi ngô, vạm vỡ, thông minh hơn người. Ông bà đặt tên con là Lưu Lang. Năm Lưu Lang 13 tuổi thì cả hai vị thân sinh đều qua đời. Lưu Lang cùng nhóm trẻ chăn trâu trong đó có Đinh Bộ Lĩnh kết thân cùng nhau rèn luyện võ thuật, tập trận cờ lau chờ ngày ứng nghĩa. Trong số bạn thân của Lưu Lang có người giỏi giang nổi tiếng như Lưu Cơ, Nguyễn Bậc, Đinh Điền. Sau này, khi đất nước lâm nguy, giặc giã nổi lên làm nhân dân điêu đứng nhất là sự tranh chấp quyền lực và ngôi báu giữa 12 sứ quân diễn ra quyết liệt, các tráng sĩ cờ lau đã xung trận oai hùng. Sau những chiến công hiển hách ở Phù Kiệt, Tế Giang, Bố Hải, Đằng Châu, dẹp tan 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi vua, lấy quốc hiệu là Đại Cồ Việt đóng đô ở Hoa Lư. Nhà vua phong cho Lưu Cơ là Đô Hộ Phủ Sĩ Sự, Lưu Lang làm Phó Sĩ Sự.

          Một lần đưa thuộc hạ đi tuần du vãn cảnh, qua đất Khuất Châu thấy đất đai màu mỡ, cư dân thưa thớt nhưng thuần phác, Lưu Lang dừng lại đây một thời gian cho lính triệu tập thêm dân, quy tụ thành chân ấp, xá trại rồi hướng cho cư dân xây dựng nhà cửa, nhiệm sở, doanh trại, đền miếu, cách cấy lúa trồng dâu, soạn thảo gia đạo như lệ luật phe giáp.

          Lịch sử lại có tuần đột biến. Đó là khi Thập đạo tướng quân Lê Hoàn được sự che chở tin yêu của Thái hậu đã lên nắm  quyền bính chèo chống hiểm hoạ thù trong giặc ngoài. Lúc này nghĩ rằng Tướng quân Lê Hoàn làm trái với di huấn của Tiên Đế, tư thông với  Thái hậu nên Lưu Lang bèn bàn với Định Quốc Công Nguyễn Bậc và Ngoại Giáp Đinh Điền: “Sớm trừ được kẻ gian tham để Tiên Đế yên lòng nơi chín suối”. Bàn xong, các ông đem quân hòng chặn đứng các thế lực của Thập đạo tướng quân Lê Hoàn. Trong trận này, lực lượng của các ông bị luồng lửa của Tướng quân Lê Hoàn phóng ra theo chiều gió thuận cuốn đi tan tác. Lưu Lang và Đinh Điền tử trận. Lưu Lang không trở về nhưng uy danh của Lưu Tướng quân còn vang mãi. Cư dân Đồng Hạ dựng miếu thờ ông. Các triều vua Lý, Trần sau này đều duy trì phong ông là Thượng Đẳng Phúc Thần.

          Đình Đồng Hạ còn chứng kiến nhiều sự kện lịch sử quan trọng khác. Đầu năm 1943, tại đình Đồng Hạ đã ra đời tổ chức Thanh niên Phan Anh (hoạt động hợp pháp tránh sự khủng bố của giặc Nhật, sau này chuyển thành Thanh niên cứu quốc trong mặt trận Việt Minh) với con số gần hai chục đoàn viên. Hình thức công khai là tập võ, rèn luyện thân thể nhưng bên trong là tuyên truyền lòng yêu nứoc, căm thù giặc. Phong trào cứu quốc từ đây đã lớn mạnh, thu hút đựơc nhiều người tham gia. Hưởng ứng lời kêu gọi của Huyện bộ Việt Minh, rất đông bà con Đồng Hạ đã theo đoàn viên cứu quốc xuống Đống Long phá kho thóc Nhật, cứu đói cho dân (tháng 3/2945). Đến tháng 7, được tin đoần thuyền chở thóc do Nhật thu gom của dân chuyển bằng đường sông về thị xã Hưng Yên, thanh niên Đồng Hạ, Đức Chiêm dưới sự chỉ huy của ông Nguyễn Cảo hạ quyết tâm đánh chặn, giành lại số thóc này chia cho bà con đang bị đói. Cuộc đấu tranh thắng lợi, bà con hồ hởi đến đình Đồng Hạ nhận thóc được chia cho từng hộ đang đứt bữa.

          Ngày 10/8/1945, viên tri huyện Kim Động mang lính khố xanh đi kiểm tra đê khu vực Đức Hợp. Nhân dân Đức Hợp đã buộc hắn phải theo về đình để dân hỏi tội. Cuộc đấu tranh chớp nhoáng mà kiên quyết gây được sự phấn chấn trong nhân dân để tiến tới ngày cùng nhân dân toàn huyện giành chính quyền, thiết lập trật tự xã hội mới dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ Tịch Hồ Chí Minh.

          Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đình Đồng Hạ lại được coi là điểm thuận lợi cho Đảng bộ địa phương mở hội nghị, tổ chức các lớp tập huấn quân sự và chính trị, là nơi tập kết các lực lượng vũ trang của huyện và tỉnh để đi vây bốt, diệt đồn, chống địch càn quét.

          Đình Đồng Hạ còn vinh dự được nhiều cán bộ lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước về thăm gặp gỡ và nói chuyện với bà con địa phương nhân dịp các đồng chí đi kiểm tra phong trào, trong đó có đồng chí Trường Chinh, Chủ tịch hôi đồng Nhà Nước, đồng chí Tố Hữu, thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng và nhiều Bộ trưởng, Ủy viên Trung ương khác.

          Đình Đồng Hạ còn lưu giữ nhiều hiện vật quý: một bia niên hiệu Cảnh Trị thứ tư, 1 bia hậu niên hiệu Khải Định năm thứ năm, 1 bia ghi công đức hai lần trùng tu đình; một long ngai bài vị, 1 kiệu bát cống, 1 kiệu long đình, 1 bộ đỉnh dồng và 4 cây nến đồng, 1 bát hương sứ thời Nguyễn; 7 sắc phong thời Lê và nhiều đồ thờ khác.

          Đình Đồng Hạ được Nhà nước công nhận Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia theo quyết định số 78 ngày 23/8/2004 của Bộ Văn hoá – Thông tin.

 

8.ĐÌNH VÀ CHÙA ĐỐNG LONG

          Đống Long là một trong 6 thôn của xã Hùng An. Đình và chùa được xây dựng gần nhau ở giữa khu dân cư đông đúc có trục đường chính dẫn đến các xóm rất thuận lợi cho việc sinh hoạt văn hoá, tín ngưỡng của nhân dân.

          Đình Đống Long là một trong số đình làng có kiến trúc bề thế, hoành tráng và cổ kính trong huyện. Đình được xây dựng vào thời Hậu Lê, niên hiệu Chính Hoà thứ 15 (Giáp Tuất 1694), toạ lạc trên khu đất 222 mét vuông, mặt tiền hướng tây nam có cây đa, giếng nước đậm chất nông thông Việt. Đình xây dựng theo chữ Đinh có Hậu Cung, toà Tiền Tế 5 gian và dĩ, mái lợp ngói mũi phẳng, hai đầu hồi có hai đầu kìm đắp nổi rất sinh động. Từ hai đầu hồi xuôi xuống hình đao mềm mại trên guột lá cách điệu.

          Khu Tiền Tế 5 gian có quy mô thông thuỷ 185m, kết cấu bằng hệ thống hai hàng cột 8 cột lilm cao 5m đặt trên các trụ đá tảng rất vững chãi. Hệ thống cột chịu lực này được kết nối với nhau thành một bộ khung bằng các vì kèo, từ nóc xuống mái được kết cấu theo kiểu chồng rường đầu kề, các con đường đều chạm nổi hình lá lật cách điệu.

          Nghệ thuật chạm khắc rất dụng công làm cho ngôi đình có nét tinh tế: xà đều có soi gờ chỉ, chạm nổi cách điệu mô phỏng theo cách tích chuyện cổ. Gian giữa có 8 bức cuốn, 2 bức đại tự đều được chạm khắc tỉ mỉ, chau chuốt.

          Chùa Đống Long có tên chữ Khai Nguyên Tự được xây dựng thời Nguyễn, kiến trúc theo kiểu “Nội công ngoại quốc”, trên một khu đất 3.220 mét vuông, ở thế đất Long giáng. Toàn bộ ngôi chùa, từ Tiền Đường, Nhà Tổ đến Hậu Cung đều xây dựng bằng gỗ lim và các chất liệu quý.

          Đình Đống Long thờ Tướng quân Triệu Quang Phục và 5 vị Thành Hoàng có tên là Trương Hống, Trương Hát, Trương Lừng, Trương Lẫy, và Trương Thị Kim Dung, những tướng tài đã lập nên nhiều chiến công lừng lẫy dưới cờ khởi nghĩa của Triệu Quang Phục.

          Theo sách “Các triều đại Việt Nam” cùng với sách chuyên khảo về Triệu Việt Vương và thần tích, thần phả lưu giữ tại khu di tích, có thể tóm tắt về vị thần được cư dân Đống Long hương khói thờ cúng như sau:

          Triệu Quang Phục gốc là người Chu Diên (thuộc khu vực Hưng Yên – Hải Dương) là một vị tướng tài dưới triều vua Lý Nam Đế. Trước khi qua đời, Lý Nam Đế trao việc binh  quyền cho Triệu Quang Phục, lúc ấy thế giặc đang mạnh, Triệu Quang Phục bèn nghĩ kế bảo toàn lực lượng chờ thời cơ. Ông đưa quân về khu Dạ Trạch – Mạn Trù (phủ Khoái Châu). Đây là một khu đồng lầy, đất rộng mênh mông, lau sậy um tùm. ở chính giữa lại nổi lên một bãi đất rộng, khô ráo có thể dừng chân dựng trại. Với địa hình hiểm yếu, đầm Dạ Trạch thuận lợi cho việc phát triển sản xuất và phòng ngự để dần tăng binh lực chống lại giặc Lương. Tại đầm Dạ Trạch ban ngày nghĩa quân sản xuất, ban đêm đánh úp khiến địch không kịp trở tay và ngày càng rệu rã. Sau Lý Nam Đế, Triệu Quang Phục lên nắm quyền, xưng hiệu Triệu Việt Vương, dân gian gọi ông là Dạ Trạch Vương. Đến năm Canh Ngọ (550) nhà Lương có quân giao chiến, giết được tướng giặc Dương Sàn, thu lại kinh đo, khôi phục nền độc lập cho quốc gia.

          Năm Đinh Sửu (557), Lý Phật Tử - một hậu duệ của nhà Lý muốn giành lại ngôi nhà Lý đã đem quân về tuyên chiến với Triệu Việt Vương. Không muốn cảnh nồi da nấu thịt, binh sĩ và lương dân đổ máu vì sự chén giết giành ngôi báu, nên Triệu Việt Vương thuận lòng sẻ quyền lực cho Lý Phật Tử, theo đó, Lý Phật Tử đóng đô ở Ô Diễn (Đại Mỗ - Từ Liêm), Triệu Việt Vương giữ miền  Long Biên, lấy bãi Quân Thần (Thượng Cát – Từ Liêm) làm ranh giới. Sự hoà hiếu không mấy bền vững, chỉ duy trì được tới năm Tân Mão (571) thì Phật Tử bất ngờ đem quân vây hãm Triêụ Việt Vương. Trong thế trận bị động, Triệu Việt Vương đã tự định đoạt số phận bằng cách gieo mình xuống dòng nước siết thuộc địa phận Đại Nha.

          Nhân dân vùng này lập đền thờ ông. Các triều vua sau đó đều ban sắc chỉ phong Triệu Việt Vương là Minh Đạo Hoàng Đế (năm Trung Hưng thứ tư). Đến năm Long Hưng thứ 21 (1313) đời Trần Anh Tông, vua lại ban them 4 chữ Thánh Liệt Trần Vũ. Sau khi ông mất, cư dân Đống Long tôn ông làm Thành Hoàng để đời đời nhớ tấm gương nghĩa liệt, con cháu hàng năm đèn hương hoa trái thờ cúng.

          Lại nói về sự tích 5 vị Thành Hoàng khác được cư dân Đống Long thờ ở đình.

          Ở vùng Như Nguyệt (thuộc Bắc Ninh) có bà Lê Thị Diệu một đêm nằm mơ thấy 5 ngôi sao chiếu vào người, một điềm kỳ diệu. Qủa nhiên sau đó bà sinh ra được 4 chàng trai và một cô gái. Bốn anh em Trương Hống, Trương Hát, Trương Lừng, Trương Lẫy đều có tướng mạo khôi ngô, thiên tư mẫn tiệp. Cô út Trương Thị Kim Dung cũng có nhan sắc và so trí thông minh hơn hẳn mọi cô gái cùng thời. Năm anh em sống cảnh bần hàn sớm biết căm thù quân ngoại bang tàn sát, cướp bóc dân mình nên đã cùng nhau nuôi chí lớn.

          Năm anh em đã cùng nhau gia nhập nghĩa quân do tướng quân Triệu Quang Phục cầm binh tại bản doanh Dạ Trạch. Chẳng bao lâu 4 người anh trai đều lần lượt lập công lớn, trong đó nổi bật là trận đánh ở Đông Kết bắt sống tướng giặc, diệt hàng ngàn tên. Tại một trận đánh khác ở khu Vườn Chuối (ngoại vi Dạ Trạch) cô em gái Trương Thị Kim Dung giả đóng vai ca nương đã khéo léo trà trộn vào hàng ngũ giặc, dụ giỗ rồi bắt sống tên tướng giặc Tiêu Đạt. Thời vua Lê, niên hiệu Cảnh Hưng thứ hai, triều đình ban sắc phong Tứ Tướng Nhất Thần Tiên cho 4 tướng tai hò Trương và ê chuẩn cho cư dân Đống Long được tôn các ngài làm Thành Hoàng

          Trải qua bao thăng trầm của lịch sử cũng như bao gió bão khắc nghiệt của thiên nhiên, đình và chùa Đống Long đã bị hư hại và phải trùng tu nhiều lần. Đình đã bị mất một phần Hậu Cung. Khuôn viên chùa đã không còn nguyên vẹn hàng cây cổ thụ. Tuy nhiên, cả đình và chùa đều được chính quyền và nhân dân chăm sóc, tu tạo và giữ cho di tích này vẻ thanh khiết uy nghiêm cố hữu đồng thời là nơi lưu giữ nhều sự kiện lịch sử của địa phương trong tiến trình đấu tranh cách mạng.

          Những năm 1939 – 1944, Đống Long là địa bàn được cán bộ Việt Minh về gây cơ sở, cả đình và chùa là nơi dừng chân an toàn của cán bộ. Khi Cách mạng tháng Tám thành công, tại đình đã hình thành các đơn vị vũ trang chiến đấu, đội nữ du kích đã hình thành các đơn vị vũ trang chiến đấu, đội nữ du kích Hoàng Ngân hội tụ những nam nữ thanh niên tích cực nhất của làng. Hai năm 1945 – 1946 là thời điểm khắc nghiệt nhất bởi nạn đói đã diễn ra hết sức trầm trọng. Quân đội phát xít Nhật kéo vào Hưng Yên, thu gom thóc của dân mang về chùa Đống Long lập thành kho hàng mấy trăm tấn. Không thể để bà con mình chịu mãi cảnh đói khổ cơ cực, lãnh đạo Việt Minh huyện chủ trương đánh phá kho thóc Nhật đóng ở chùa Đống Long chia cho dân. Theo kế hoạch đã được chuẩn bị chu đáo, ngày 14/3/1945, từ nhiều ngã đường từng đoàn người quang gánh trên vai kéo về Đống Long. Phối hợp với bà con tại chỗ giương cao cờ đỏ sao vàng tiến vào phá kho thóc dưới sự chỉ huy của nữ cán bộ Việt Minh Nguyễn Thị Hưng. Hành động táo bạo này đã mang lại kết quả to lớn: kẻ địch bất ngờ không kịp trở tay đối phó; 200 tấn thóc từ trong kho đã được phân tán về các thôn cùng ngõ hẻm, đẩy lùi nan đói; gây được niềm phấn khích to lớn cho các địa phương và tạo đà cho nhiều cuộc đấu tranh phá kho thóc Nhật liên tiếp nổ ra trong toàn huyện sau đó.

          Nhân dân Đống Long lấy ngày 10/3 âm lịch làm ngày hội làng. Tại cả hai nơi đình  và chùa ngày nay đều có nghi thức lễ hội long trọng được bà con hưởng ứng sôi nổi hào hứng.

          Các hiện vật còn lưu giữ được:

          Tại đình 1: ngai thờ và 1 cỗ kiệu bát cống thời Nguyễn, 3 bát hương thời Lê; 1 bức đại tự và 2 bộ cửa võng. Đặc biệt giá trị là một hòm sắt đặt trên giá trúc, trong hòm lưu giữ 12 bản sắc phong của các triều đại vua: Đồng Khánh, Thành Thái, Tự Đức, Khải Định.

          Tại chùa: 2 bộ đỉnh đồng; 4 cây đèn nế đồng; 1 bát hương thời Nguyễn đường kính 30cm có trang trí lưỡng long chầu nguyệt. Đặc biệt giá trị là 33 pho tượng phật với nhiều thế khác nhau bằng chất liệu đồng và gỗ quý, tạc vào thời Lê Cảnh Thịnh. Cả 33 pho tượng này đều còn giữ được tương đối nguyên vẹn.

          Năm 2000 đình và chùa Đống Long được Nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử và kiến trúc cấp quốc gia của Bộ Văn Hoá.

 

9.ĐÌNH THANH CÙ

          Đình Thanh Cù thuộc xã Ngọc Thanh có tên Nôm là Đình Gò, thờ Linh Lang Đại Vương, mở hội làng hàng năm vào ngay 10/3 năm âm lịch. Theo nhân dân địa phương truyền lại thì trước đây trên vùng đất này có một đống đất cao mọc lên, từ đó hàng năm có tên là Thanh Cù (làng Gò). Đình được xây dựng ở phía đông bắc của làng, nơi có thế đất hẹp cao ráo mát mẻ, thuận lơi cho việc đi lại lễ bái hội họp của bà con. Ba phía đông, tây, nam áp sát với khu dân cư. Phía Bắc giáp với đồng ruộng. Theo truyền thuyết, đình Thanh Cù được xây dựng khá sớm, khoảng năm 1691- cách đây hơn ba thế kỉ. Đình trước đây ngoài thờ Thành Hoàng làng còn là trụ sở để hội họp bàn việc làng. Thành Hoàng làng được thờ ở Hậu Cung, là nơi tôn nghiêm nhất trong quần thể kiến trúc của đình. Khi hội họp hoặc việc làng, cửa Hậu Cung được đóng lại để đảm bảo sự tĩnh lặng trang trọng.

          Qua nghiên cứu thần tích sắc phong, đình Thanh Cù thờ Thành Hoàng làng là Linh Lang. Thần tích chép rằng: Từ nhỏ Linh Lang đã rất thông minh ham học văn võ. Chưa đầy một năm mà kinh sách của Phật tất cả đều tinh thông. Ngày tháng trôi đi, chàng càng học càng nổi danh tài cán. Khi Linh Lang bước vào tuổi thanh xuân thì cũng là lúc quân Mông Cổ kéo vào xâm lược nước ta. Đời vua Trần Nhân Tông, tướng Nguyên là Toa Đô đem hơn 40 vạn quân chia làm hai đường thuỷ bộ tiến vào nước ta. Trước tình hình đất nước như vậy, Linh Lang đã nói: “Con người ta sinh ra ở đời, phải tỏ rõ là bậc đại trượng phu, nơi chiến trường da bọc thây, không sờn chí lùi bước. Nếu không liều chết, cứu dân trong lúc gian nan thì lấy gì ghi tên sử sách, để tiếng cho đời sau”. Ông dâng biểu tỏ phương lược diệt giặc và tự mình lập quân Hưng Nghĩa để xung trận. Vua ngợi khen ý chí của ông và đồng ý.

          Ông thu thập quân sĩ được hơn một vạn người phân bổ thành cơ đội, rèn luyện tập trận pháp, tự lấy hiệu là “Thiên Tử quân” và phất cờ nghĩa, đánh thắng quân Nguyên ở Bàn Than. Sau đó nghĩa quân tiếp tục truy kích, đánh tan quân địch ở sông Đông Mai, hội với cánh quân của Trần Hưng Đạo và Trần Nhật Duật ở Vạn Kiếp. Tiếp đó ông lại cho quân tiến đánh giặc Nguyên ở Mạn Trù, nhổ trại Đông Kết, một ngày giao chiến 8 lần thì cả 8 đều thắng trận, chém hơn 3 vạn tên, bắt sống được nhiều tướng giặc trong đó có Lý Hoà La cùng rất nhiều binh lính. Quân Nguyên từ đó sợ, không dám tiến đánh nước ta nữa.

          Đất nước bình yên trở lại. Do có công đánh giặc Nguyên Mông, Linh Lang được phong chức Đại Vương. Ghi nhận công lao của Linh Lang, các triều đại sau này đều phong sắc để nhân dân tôn thờ Thành Hoàng làng, kế thừa truyền thống yêu nước, góp phần gìn giữ nền độc lập dân tộc. Qua nhiều biến đổi lịch sử, những sắc phong của thời Trần đã dần thất thoát. Hiện di tích chỉ còn 20 sắc phong của triều Lê và triều Nguyễn.

          Đình Thanh Cù là di tích lớn. Theo nhân dân từ xa xưa đình có nhiều hiện vật quý. Hiện chỉ còn 3 kiệu bát cống thời Lê, trên tay đòn của kiệu đều chạm trổ rồng có tóc, râu hình đao lửa đẹp và thanh. Ngoài kiệu bát cống còn kiệu long đình, thân chạm hoa dây rất đẹp. Các kiệu trên đều sơn son thiếp vàng lộng lẫy. Ở đình Thanh Cù còn nhiều đồ thờ quý giá khác, đặc biệt là chuông đồng cao 1,4m, đường kính miệng 0,7m, đúc năm Tự Đức thứ tư ghi công đức tu bổ đình; một chuông đồng khác đúc năm Thành Thái thứ 2 cao 1,2m, đường kính miệng 0,6m; một ban thờ bằng gỗ dài 2,8m, cao 1,3m, được chạm rồng đuổi nhau ở riềm, rồng có râu tóc hình đao lửa; một bộ đỉnh đồng thời Nguyễn, trên nắp đỉnh đúc hình trúc hoa long; một bát hương bằng sứ thời Lê cao 2,5m, đường kính miệng 0,22m; hai cỗ ngai vàng và bài vị sơn son thiếp vàng; ngai có chạm rồng ở tay ngai và hoa ở thân ngai và bài vị sơn son thiếp vàng; ba đôi câu đối và hai bức đại tự; một tượng lính gác cao 2,1m; hai voi đá và một bức chạm thời Lê.

          Nhân dân xã Ngọc Thanh, nhất là người dân sở tại Thanh Cù rất tự hào về ngôi đình này. Còn truyền lại từ nhiều thế hệ những giai thoại về tên làng và sự linh thiêng của thế đất. Thanh Cù là gò đất cao, hội tụ được những đức tính ưu việt: một cuộc sống thanh cao, một môi trường thanh khiết. Đình làng Thanh Cù được Nhà nước công nhận “Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia” theo nghị quyết số 68 của Bộ Văn hoá Thông tin cấp ngày 29/1/1993

 

10.CHÙA PHƯƠNG TÒNG

          Chùa có tên chữ là Tam Cương Tự, nhưng thường được gọi là chùa Phương Tòng hoặc nôm na là chùa Phương, thuộc xã Hùng An

          Theo lời các vị cao tuổi kể lại thì xưa kia, khu đất này rất trũng nhưng lại nổi lên 3 gò đất cao. Cho đó là điềm lành, một sự mách bảo thiêng liêng từ tiềm thức nên bà con mới dựng lên ngôi chùa để thờ “Thiên, Địa, Nhân”. Còn sự duy danh định nghĩa được bà con nhắc đến thì Phương Tòng là đất biểu tượng của tinh thần cao thượng, ngay thẳng, gan góc trước gió bão như cây tùng cây bách. Chùa được xây dựng vào thời Lê Trung Hưng trên khu đất rộng phía Tây của làng, sát chân đê, cổng chùa và Tam Quan hướng thẳng ra sống Hồng gió lộng quan năm. Tuy chùa được xây dựng kiên cố, bề thế nhưng qua thời gian dài với nhiều bão gió lụt lội, giặc dã nên đã bị xuống cấp nhiều. Cuối năm 1934, bà con địa phương góp công của xây dựng lại với quy mô ngày nay.

          Như mọi ngôi chùa khác trên đất nước ta, chùa Phương Tòng là nơi thờ Phật, giảng thuyết Phật học, quảng bá mở rộng đạo Phật, hướng con người vào điều lành, điều thiện, tránh xa điều ác. Chùa chẳng những đẹp về cảnh sắc thiên nhiên, về sự mộ đạo của Phật tử, là tuyệt đại đa số cư dân địa phương, mà còn là một cơ sở của tổ chức cách mạng có giá trị lịch sử.

          Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, hai chiến sĩ cách mạng là Chu Văn Tập và Lương Hiền từ hoạt động ở phía tây nam Hưng Yên đã chuyển địa bàn hoạt động lên chùa Phương Tòng- Hùng An- Kim Động. Hai ông đã chọn nơi hoạt động đầu tiên vào gia đình bà Thứ Thoả- một người sớm được hai ông giác ngộ cách mạng. Sau đó, để đảm bảo hơn cho công tác hoạt động cách mạng, hai ông đã chon một nơi vừa kín đáo vừa tĩnh lặng, đó là chùa Phương với sự giúp đõ của vị sư trụ trì yêu nước là sư Dưỡng. Hai ông đã dựa vào chùa để hoạt động, gây ảnh hưởng cách mạng rộng rãi ra các vùng xung quanh. Được cơ sở bảo vệ chu đáo, Chu Văn Tập và Lương Hiền sau này đã trở thành cán bộ chủ chốt của chính quyền cách mạng.

          Năm 1946 cuộc kháng chiến bùng nổ, chùa Phương Tòng lại được chọn làm cơ sở hoạt động an toàn của Đảng bộ huyện và tỉnh. Tại đây, đồng chí Chủ tịch lâm thời tỉnh Hưng Yên đã triệu tập lớp học quân sự. Trong thời gian lớp học quân sự diễn ra rại chùa đã được sự giúp đỡ nhiệt thành của các vị sư trụ trì (sư Dưỡng sau là sư Mùi) và bà vãi Khánh. Sau đó chùa Phương còn được chọn làm điạ điểm tổ chức Đại hội của chi bộ xã Hùng An, là nơi đỡ đầu của trung đội du kích Phương Tòng.

          Cuối năm 1951, đầu năm 1952, nhà chùa đã đào trong khu nội tự 5 hầm bí mật để đón phân bộ đội tỉnh Hưng Yên về ở tại chùa hỗ trợ cho phong trào chiến tranh du kích địa phương. Năm 1953, theo yêu cầu của tổ chức, sư Mùi được điều lên công tác ở vùng Khoái Châu, Hoà thượng Đặng Thanh Khiết về thay. Cũng năm này, thực dân Pháp đã tiến hành càn quét bao vây chùa. Trong tình hình khó khăn ấy, vãi Khánh đã ra càn phá, ngăn bước tiến quân của địch để chiến sĩ ta có đủ thời gian đối phó, nhìn chung trong quá trình vận động cách mạng cũng như trong kháng chiến, chùa Phương Tòng luôn là cơ sở vững vàng, tạo điều kện cho mọi hoạt động cách mạng và chiến đấu chống Pháp của địa phương thắng lợi to lớn.

          Từ năm 1968 đến năm 1976, chùa Phương Tòng thường được chọn làm địa điểm tổ chức các hội nghị do cấp trên triệu tập, trong đó có một hội nghị quan trọng ủng hộ phong trào ra đường chống đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai của Phật giáo miền Nam. Chùa còn là nơi Viện Đông y Trung ương sơ tán tránh bom đạn địch, đồng thời phát triển được các hoạt động nghề nghiệp một cách an toàn v.

          Hiện vật được lưu giữ trong di tích chùa Phương Tòng còn khá nhiều. Trên Tam Quan có một tượng Phật bà toạ sơn cao 1,4m, 1 chuông đồng cao 0,8m đường kính miệng 0,5m, đúc năm Minh Mệnh thứ 31. Tượng đặt trên bệ cao được tạo dáng rất đẹp. Hai tượng Kim Đồng và Ngọc Nữ cao 0,6m đứng hai bên tượng Phật bà. Bên trong có 21 pho tượng Phật ở Đại Bái và Thượng Điền. Các pho tượng này đều làm ở thế ngồi cân đối hài hoà. Hai khám thờ Đức Ông và Thánh Hiền, xung quanh khám đều có chạm hình hoa dây sơn màu mận chín; 14 đôi câu đối, 6 bức đại tự, một khánh đồng đúc năm 1937 cao 0,8m, rộng 1,1m. Tất cả các đồ thờ trên đã làm cho chùa thêm hấp dẫn bởi vẻ đẹo cổ kính và sự uy linh. Chùa Phương Tòng được Nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia theo quyết định công nhận số 74 ngày 2/2/1993 của Bộ Văn hoá Thông tin.

 

11.ĐÌNH , CHÙA, MIẾU NGÔ XÁ

          Thông Ngô Xá thuộc xã Vĩnh Xá có cả đình, chùa và miếu tạo thành một cụm di tích kiến trúc nghệ thuật độc đáo. Theo các cụ cao tuổi kể lại thì Ngô Xá từ rất lâu đã có tiếng vang là vùng đất hợp với cây ngô. Bao giờ ngô ở đây cũng xanh tốt, hạt mẩy và to, năng suất cao, do vậy mà có tên là làng Ngô (Ngô Xá). Cả đình, chùa, miếu đều được gọi theo tên làng. Riêng ngôi chùa có tên chữ là “Ninh Khánh Tự”.

          Theo dân gian trong vùng truyền tụng, cả cụm di tích này đều do thầy địa lý Tả Ao chọn thế đất rồng chầu hổ phục, chỗ cao thoáng gió, ở ngay đầu làng trước mặt có dòng thông thuỷ gồm cả ao, hồ và sông. Cụm di tích được xây dựng vào thời Hậu Lê, đến thời Nguyễn được trùng tu lại. Chùa thờ Phật, đình và miếu đều thờ Tam vị Đại Vương: Đông Thiện Sùng Tín Đại Vương, Đông Chinh Thiện Môn Đại Vương và Tây Chinh Điạ Phủ Đại Vương. Lễ hội hàng năm được tổ chức vào các ngày 10/3 và 8/8 âm lịch.

          Dân gian truyền lại theo thần tích như sau: Những năm bên Trung Hoa loạn li, có một người tên là Sùng Quang quê tận Long Hưng bên Tầu chạy sang cư trú ở xã Phúc Bái, huyện Quốc Oai, phủ Linh Sơn, tỉnh Sơn Tây. Tại Phúc Bái ông đã làm bạn với bà Nguyệt. Gia đình sống trong đầm ấm hạnh phúc và làm nghề cắt thuốc chữa bệnh cho nhân dân. Chữa bệnh cho người nghèo khó ông bà không thu tiền mà còn nuôi ăn. Nhân dân khắp vùng đều ngợi khen vợ chồng ông là nhân đức. Song hiềm một nỗi vợ choong ông đã cao tuổi rồi mà con cái vẫn chưa có.

          Đến thời gian đất nước ta rơi vào cảnh loạn ly, 12 sứ quân tranh giành quyền lực gây bao tang tóc cho dân lành. Vợ chộng ông Sùng Quang phải chạy sang Ngô Xá Trang (tên gọi cỏ của thôn Ngô Xá ngày nay), thuộc phủ Khoái Châu, làm nhà ở nhờ trong khu chùa Ngô Xá. Tại đây ông bà vẫn làm nghề bốc thuốc và nông tang làm kế sinh nhai. Ông bà thường lên chùa lễ Phật cầu tự. Trong một đêm mưa gió bão bùng bà nằm mơ thấy mình sinh đựơc ba con trai khôi ngô tuấn tú, văn võ tài ba. Như mộng bá, một thời gián sau bà mang thai và sinh được ba người con trai và đặt tên con trai là: Trưởng Viết Sùng Công, Thứ Viết Quách Công và Thứ Viết Thiện Công. Cuộc sống của ông bà bây giờ đã đầm ấm hạnh phúc thực sự.

          Thần tích ghi tiếp: Ông bà cho cả ba con theo học một đạo sĩ nổi tiến thời bấy giờ. Cả ba người đều được bạn bè trong xã kính nể và yêu mến. Khi ba anh em vào tuổi 18 thì cả cha mẹ đều lâm bệnh tạ thế, ba anh em thương xót làm lễ an táng cho cha mẹ ngay bên cạnh chùa và lập đàn làm lễ cầu siêu báo đáp công ơn. Ba anh ẹm phải tảo tần làm ăn và vẫn nhiệt tâm học hành văn võ. Ba anh em dựng một ngôi quán ở gốc đa đầu làng bán cơm rượu. Chính nơi quán đó đã trở thành chỗ hội tụ của thanh niên trai tráng và các bậc anh hào. Cũng thời kỳ này, nội chiến giữa 12 sứ quân kéo dài gây cho dân ta cảnh nồi da nấu thịt. Đinh Bộ Lĩnh là một trong những sứ quân mạnh và uy tín nhất đóng đô ở Hoa Lư, đã cho tướng Nguyễn Bậc đem quân đi dẹp loạn. Đến đất Ngô Xá thì trời đã tốt. Nguyễn Bậc cho quân sĩ nghỉ tại đây, ba anh dem Sùng Công biết được liền chiêu tập binh sĩ được hơn ba trăm người gồm Phượng Lâu 5, An Tàô 10, An Xá 45, Vĩnh Đồng 45, Dưỡng Phú 51, Cốc Khê Tạ Xá 55, Đào Xá 36 và trang sở tại 55 người, rồi các ông đem quân đến yết kiến tướng Nguyễn Bậc. Thấy được nhiệt tình của ba anh em họ Sùng, Nguyễn Bậc cùng họ đoàn kết làm anh em như trong một bọc. Sau đó họ cùng nhau kéo quân về kinh đôthành Hoa Lư yết kiến vua Đinh.

          Dưới sự chỉ huy của ba vị tướng trẻ Sùng Công, quân sĩ đi tới đâu cũng được nhân dân ủng hộ, quân giặc nghe tiếng phải bỏ giáo quy đầu hàng. Các đạo quân phiến loạn tan giã một cách nhanh chóng, giang sơn thu về một mối, dân tộc chấm dứt cảnh chém giết lẫn nhau. Trong niềm vui và phấn khởi tràn ngập kinh thành Hoa Lư, Đinh Tiên Hoàng ca ngợi tinh thần chiến đấu dũng cảm của ba quân, ca ngợi trí thông minh và đức độ của ba anh em Sùng Công. Vua Đinh đã phong tặng Sùng Công làm Trưởng Án Nội Các, Quách Công làm Kim Thiên Môn Điện, Thiện Công làm Tây Chính Trấn Ngự Phủ Điện.

          Sau khi nhận chức trong triều được 12 năm, ba ông đã dâng biểu sớ xin triều đình cho về Ngô Xá thăm quê hương và mộ phần cha mẹ, nhà vua cảm kích đã cho ba ông vàng 55 hốt, áo bào 1 cuộn. Người dân địa phương vô cùng phấn chấn khi gặp lại ba ông. Trong niềm vui đó, ba ông đã tặng nhân dân Ngô Xá 300 hốt vàng để lập đình miếu, sửa sang lại ngôi chùa. Qua một thời gian, ba ông đã mất tại xã. Tại ngôi miếu, nhân dân đã tạc tượng ba ông để tôn thờ. Trên bài vị đặt trong khám trước ban thờ, tên ba ông vẫn ngời sáng. Ngày sinh của ba ông là 10/3, ngày mất là 9/8. Vào những ngày này nhân dân gần xa thường đến thắp hương tế lễ, rước kiệu tôn vinh những tấm gương cao đẹp, đã hiến dâng tất cả sức lực trí tuệ của mình để bảo vệ nền độc lập dân tộc.

          Để bảo lưu đạo lý tốt đẹp của ba ông, các triều đại sau đó đều phong sắc để nhân dân thờ phụng và học tập. Theo truyền ngôn, thế kỷ XX, khi tiến quân đi đánh giặc Minh qua đây Thái uý Lê Lợi vào thắp hương, được ba ông báo mộng phù giúp, Lê Lợi như được tiếp thêm sức mạnh khi vào trận ông đã giành được thắng lợi lớn.

          Phát huy truyền thống đó, trong kháng chiến chống thực dân Pháp, những di tích này đều là cơ sở che giấu bảo vệ cán bộ, bộ đội góp phần đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi. Đến nay đất nước đã đổi mới, các di tích được trở về đúng vị trí là nơi sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng của làng. Trong những ngày lễ hội, đình chùa, miếu đền, nhân dân tập trung ở di tích này rất đông vui, hào hứng cùng nhau tiến hành tế lễ, rước kiệu và vui chơi với các hình thức văn hóa thể thao sinh động.

          Các hiện vật trong cụm di tích hiện còn: hai kiệu bát cống, hai kiệu long đình sơn son thiếp vàng; một bát hương sứ cao 0,38m, đường kính miệng rộng 0,6m năm Bảo Đại thứ 5; một chuông đồng cao 0,85m đường kính miệng rộng 0,42m, một bộ bát bửu, một bộ long đao 8 chiếc; bốn cây đèn lồng và bốn cây đèn gỗ; 6 cỗ ngai, ba ở đình, ba ở miếu đều sơn son thiếp vàng; 16 pho tượng phật ở chùa, 3 pho tượng thần ở miếu; một cầu đá thời Lê gồm 6 tấm đá rộng 0,45m dài 1,05m; 3 bàn thờ gỗ sơn son với riềm chạm dây hoa cỡ 1,4 × 0,6m; 16 cột đá cỡ 2,2 × 0,25; 13 đạo sắc phong thời Lê và thời Nguyễn; một giá gương gỗ sơn son thiếp vàng chạm long vân, 8 đại tự sơn son thiếp vàng và 4 đôi câu đối rất cổ kính. Cụm đình, chùa, miếu Ngô Xá được Nhà nước xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia theo Quyết định số 634 ngày 11/5/1993 của Bộ Văn hoá Thông tin.

 

 

12.ĐÌNH BỒNG CHÂU

          Đình được gọi tên theo thông Bồng Châu, xã Phú Cường. Đình thờ 15 vị đẳng thần thời Hùng Vương và Hai Bà Trưng. Lễ hội được mở tại đình vào các ngày mùng 10/1,/13/3 và 10/11 âm lịch. Đình kiến trúc theo kiểu chữ Công trên khu đất hẹp cao ráo thoáng mát giữa một bãi sông Hồng rất thuận tiện cho thuyền bè qua lại.

          Đầu tiên, đình được xây dựng ở giữa làng. Về sau do biến động về thiên nhiên, hàng năm nước lũ sông Hồng dâng cao cuốn lở đất nên đình được chuyển vào cuối làng giáp đê bối. Mặt tiền của đình quay về phía tây nam giáp sông Hồng, phía tây áp sát với khu dân cư, phía đông giáp đồng ruộng và thôn Kệ Châu 1, phía bắc là đồng ruộng. Theo truyền thuyết, đình Bồng Châu được xây dựng khá sớm. Theo sắc chỉ thời Tiền Lê, triều đình giao cho Thất Gia Trại lập miếu điện thờ phụng.

          Cũng như những ngôi đình ở các xã, đình Bồng Châu vừa được coi là trụ sở để dân hội họp, bàn việc làng vừa là nơi thờ thành Hoàng Làng. Theo thần phả, Đình Bồng Chân thờ 15 vị Đẳng thần có công với nước với dân, được nhận sắc phong của triều đình; tuy nhiên, thần phả lưu lại chỉ thấy ói quê quán, ngày sinh, ngày mất, chức vụ của 6 trong số 15 vị đó.

          Thần tích chép rằng: Bà Trần Hồng Nương, quê tại trang An Thái, huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa Hưng, sinh được hai người con trai tên là Phổ Hộ và Linh Lôi. Năm 40 tuổi, nhà Hán đem quân sang xâm lược nước ta, đứng trước tình hình đất nước có giặc ngoại xâm, Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa, ban hành chiếu chỉ kêu gọi nhân dân đứng lên chống giặc xâm lược nhà Hán: “Thư Châu huyện, mộ nữ văn võ khí tài anh hùng khả dĩ cự chỉ. Nam tướng nam binh, nữ tướng nữ binh, dẫn sai ứng tuyển dĩ thụ kì quan tước”. Nghe được chiếu chỉ, ba mẹ con bà bàn nhau ứng tuyển đội nghĩa quân của Hai Bà Trưng. Bà Hồng Nương tuy tuổi đã cao nhưng còn khỏe mạnh. Bà tự mình vấn tóc lên vành khăn giả làm trang nam tử,cùng hai con trai đi vận động mộ quân. Chỉ một thời gian ngắn mẹ con bà vận động được trên hai nghìn người, tổ chức rèn luyện võ nghệ, giáo dục mọi người đồng tâm phù quốc. Sau đó mẹ con bà Hồng Nương dẫn đội quân của mình tới doanh trại của Hai Bà Trưng tại Hát Môn (Sơn Tây- Hà Nội ngày nay). Hai Bà Trưng phong cho hai ông Phổ Hộ và Linh Lôi chức Đô Chỉ Huy Sứ Tả Hữu Tướng Quân, phong cho bà Hồng Nương chức Nội Thị Phu Nhân, giữ bà lại bản doanh để chăm lo việc nước.

          Sau khi sắp xếp lại quân ngũ, bà Trưng giao cho hai ông đặc trách đội thuyền binh tuần tiễu đề phòng quân giặc đánh lại sau lưng. Hai ông cầm quân lên đường. Tới địa phận Khoái Châu – Kim Động gặp một bến có bãi đất bồi rộng (nay là bãi Bồng Châu), thấy thế đất đẹp, địa hình thuận lợi cho việc đóng quân, hai ông cùng quân sĩ tuyển mộ thêm người tài, lập doanh trại tại chỗ, vừa canh tác vừa rèn luyện gươm đao. Sau khi giúp cho dân lập trú, cắt cử người cai quản hương thôi, hai ông hồi Đô theo lệnh của Hai Bà Trưng để cùng tướng lĩnh bàn kế sách tấn công, tiến đánh doanh trại Tô Định.

          Cuộc đại chiến đã diễn ra. Quân của Hai Bà Trưng đã đánh tan quân giặc nhà Hán, chém đầu tướng giặc, giải phóng đất nước. Đây là thời kì độc lập đầu tiên của nước nhà. Hai Bà Trưng lên làm vua hiệu là Trưng Nữ Vương. Sau khi lên ngôi ổn định triều chính, hai bà mở tiệc đại khai khánh hạ, khao thưởng ba quân theo đẳng cấp, đồng thời ra chiếu ban cho mẹ con bà Hồng Nương phần thực ấp tại quê cũ Nam Định đạo. Đang độ mùa đông, ba mẹ con bà đi trên một chiếc thuyền rồng dọc bờ biển để quan sát địa hình điền ấp. Đi đến núi An Từ, đột nhiên trời nổi lên một trận giông tố, mưa như trút nước, một dải mây vàng từ trên cao giáng vào sa giá. Nhân gian cho rằng ba mẹ con bà đã đồng bộ tòng vân về cõi trời. Từ đó nhân dân địa phương lập đền thờ.

          Đến triều Lê Đại Hành năm Thiện Phúc, ba mẹ con đều được thụ phong sắc Thần vì đã lập nhiều công lớn. Các sắc phong đều có nội dung sau: Thông minh khôn khéo, một lòng phò Vua giúp nước, bảo toàn bờ cõi. Khi ra trận tiến công vũ bão, chiến thắng oanh liệt, dũng mãnh phô trương thanh thế khiến quân thù khiếp vía. Các triều đại sau này đều có sắc phong ghi công ba vị Đaị Vương Thượng Đẳng Thần, ban hành các quy chế nghi thức trong các ngày sinh, hoá và lễ hội. Hiện nay, tại đình Bồng Châu còn giữ được 15 sắc phong của các triều đại trước.

          Những năm thực dân Pháp cho quân chiếm đóng phía nam tỉnh Hưng Yên là giai đoạn khó khăn nhất của nhân dân Kim Động. Địch càn quét, bắn phá rất dã man. Đình Bồng Châu là nơi được cấp trên chọ đặt trạm giao liên giữ đường dây liên lạc giữa hai Quân khu Tả và Hữu ngạn sông Hồng. Đây là nơi đón bộ đội, vượt sông mỗi khi mở chiến dịch; cũng là nơi chuyển vũ khí, thương binh ta, tù binh địch ra khu an toàn. Từ năm 1951 đến 1954, đình Bồng Châu là nơi thường xuyên có các đơn vị thuộc Trung đoàn chủ lực 42 đến đóng quân mà không bị lộ bí mật và được nhân dân một lòng che chở, giúp đỡ.

          Một vinh dự khác được ghi nhận là 7/11/1963, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã về Bồng Châu thăm hỏi tình hình làm thuỷ lợi và đời sống của bà con ngay tại đình làng. Trong kí ức của nhân dân Bồng Châu, xã Phú Cường, nhất là các cụ có mặt tại buổi Thủ tướng Phạm Văn Đồng về thăm, còn in đậm hình ảnh thân thương của lãnh tụ đối với đồng bào đồng chí ở vũng bãi xa khuất này.

          Tại đình Bồng Châu còn lưu giữ nhiều hiện vật quý: một kiệu bát cống sơn son thiếp vàng thời Hậu Lê, đòn kiệu đều chạm trổ đầu rồng, thân kiệu chạm tổ cách điệu hoa văn hình sóng cuộn; hai cỗ kiệu trung cũng chạm đường nét hoa văn cầu kì; tám cỗ long ngai chạm trổ tinh vi sơn son thiếp vàng: 4 cỗ thuộc thời Lê, 4 cỗ thuộc thời Nguyễn; 1 hạc gỗ thời Lê còn giữ được nguyên vẹn đến thời nay; 1 quả chuông đúc năm Bính Thìn 1976 cao 1,5m, đường kính miệng 0,8m, nặng trên 1 tấn; 5 bộ đỉnh, đài nến bằng đồng; 1 bộ quạt 5 chiếc gồm 1 quạt cái to 10 nan xoè rộng và 4 quạt ngà voi, mỗi quạt được tạo dáng bằng giấy nén trên nan ngà voi nặng 2kg một quạt. Ngoài ra còn một số đồ tế tự bằng gỗ quý khác.

          Đình Bồng Châu được Nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử và nghệ thuật cấp quốc gia theo Quyết định số 225 ngày 5/2/1994 của Bộ Văn hoá Thông tin.

 

13.MIẾU MÁI VÀ CHÙA DƯỠNG PHÚ

          Dưỡng Phú là một thôn lớn của xã Chính Nghĩa. Thôn được cả vùng biết đến bởi hai nét đặc trưng nổi bật là: cơ sở cách mạng với những chiến sĩ cộng sản kiên cường có nhiều công lớn đối với sự nghiệp xây dựng tổ chức từ khi còn trứng nước đến ngày giành được chính quyền cách mạng và có một cụm di tích lịch sử độc đáo gồm miến Mái và ngôi chùa cổ kính.

          Trước hết là nói về miếu Mái: Thôn Dưỡng Phú từ xa xưa có tên chữ là Dưỡng Phúc, tê nôm là làng Phận. Theo truyền thuyết  làng Phận là vùng đất cổ, cây mọc rậm như rừng hoang, trong đó có một loại cây lạ mọc nhiều nhất, bà con quen gọi là cây mái. Trong rừng đầm lầy và nhiều thú dữ, đây là mảnh đất thiêng có rắn thần, có một ngôi mộ bà Chúa Mái và một ngôi miếu xây cạnh mộ được gọi là miếu Mái. Miếu được xây trên gò cao, cũng được gọi tên là gò Mái, có thế đất đẹp, cao ráo, ba mặt đông, tây, nam giáp với khu dân cư, phía bắc là ruộng cấy. Không xác định được niên đại xây dựng miếu, chỉ biết rõ hai lần tu sửa, lần thứ nhất năm Mậu Thìn 1908 và lần thứ hai 1942.

          Theo Vương phả Cung phi họ Nguyễn, soạn thời Hồng Đức năm thứ 9 (1476) chuyện xưa chp lại như sau: Tại xã Dưỡng Phúc có một gia đình, chồng là Nguyễn Công Minh gốc người sở tại lấy vợ là Trương Thị Ngoan quê tận Dưỡng Hoà, huyện Duy Tiên, phủ Lý Nhân bên kia sông Nhị Hà. Ông bà sinh được hai người con trai khôi ngô tuấn tú, giỏi giang mọi việc được bà con thôn ấp ngợi khen. Ông bà chỉ cầu sao Trời Phật cho sinh thêm một mụn con gái. Năm Bính Dậu 1266 vào ngày mồng 7/3, bà sinh ra được một cô con gái như cầu mong của hai vợ chồng. Cô gái sinh ra đã thấy khác người: mặt sáng như gương, mắt phượng mày ngài, da hồng như thoa phấn. Cha mẹ đặt tên là Nguyễn Thị La. Đến năm 13 tuổi, cô gái thông minh sáng láng tuyệt vời, thân hình rạng rỡ như hoa như nguyệt, cả một vùng thầm khen là bậc thánh nữ giáng trần.

          Chỉ qua mấy năm đèn sách mà cô gái đã lầu thông kinh truyện, hiểu rộng biết nhiều. Đến năm cô 14 tuổi, chẳng may cha mẹ đều quy tiên. Nàng bị một kẻ họ Đinh tên Hoàng mang gia nhân đến cưỡng ép làm vợ. Nàng không chịu đành bỏ quê cha mà tìm về nương náu nơi quê mẹ ở Dưỡng Hoà. Về nơi ở mới, được sự đùm bọc của gia tộc họ Trương. Nguyễn Thị La càng mê mải chuyện cứu giúp người khốn khổ bằng nghề bốc thuốc.

          Cả một vùng đất Dưỡng Hoà truyền nhau những lời tốt lành, phúc đức của cô gái và suy tụng nàng là Tiên Nương hạ thế, Trong một ngày hội làng, các bô lão hô hào lấy một số mẫu công thổ dâng tặng Tiên Nương. Khi Tiên Nương về trời, số mẫu công thổ này sẽ dùng vào việc dựng bia, hàng năm thờ cúng. Tiên Nương bái tạ, lòng xao động khôn cùng, bèn thưa xin hoàn lại dân làng và tặng thêm 500 quan tiền để bà con sửa sang tế lễ. Tiên Nương ứng khẩu đọc thơ, thơ rằng: “Dưỡng Hoà đất mẹ buổi phong vân/ Tích đức lưu truyền để lại dân/ Vận cuộc đổi thay tình chẳng đổi/ Hẹn cùng non nước vạn ngàn xuân”.

          Được sống dăm năm trong sự an bình quê mẹ, Tiên Nương bỗng lại gặp sự biến. nghịch tử họ Đinh tên Hoằng cầm đầu một toán quân ô hợp hàng ngàn tên đến đàn áp trả thù anh em nhà Nguyễn Công Minh rồi kéo về Dưỡng Hoà hòng bắt bằng được Tiên Nương Nguyễn Thị La. Trứơc đàn hổ báo hung hãn điên cuồng, Tiên Nương không biết chống đỡ như thế nào, đành một lần nữa bỏ trốn không để lại dấu tích.

          Trôi dạt tới Tràng An, Tiên Nương trọ ở phường Cửa Tây mở một quán trà trầu vỏ. Vào một ngày đẹp trời, vua Trần An Tông ra chơi gác Lầu Hương ở phía tây kinh thành. Trong một cuộc dạo chơi quanh cung cấm, tới cửa phía Tây Nhà Vua chợt thấy một quán nước mà chủ quán là một cô gái có sắc đẹp lộng lẫy. Nhà Vua bèn cho triệu cô chủ quán tới  để hầu chuyện. Năm ấy Tiên Nương vừa tròn 24 tuổi, tính đến tuổi tiên duyên kỳ ngộ này tại Tràng An. Vua sai xe loan rước nàng vào Nội phủ trong Điện Tây Các rồi lập làm cung phi thứ hai.

          Chỉ ít lâu sau, thấy giang sơn còn chưa yên, thần dân đang phải chịu khổ cực vì ngoại bang, nàng bèn tâu lên Vua cho nàng được đi đánh giặc. Trước sự nài nỉ được đi đánh giặc, lại đối đáp rất trôi chảy những câu hỏi về võ ngệ của Tiên Nương, Vua đành ưng thuận để nàng giả làm nam ra trận.

          Sau khi đánh giặc ở Xích Đằng Châu, Cung phi cho lệnh lập doanh trại luyện quân và dựng các phòng tuyến chặn địch. Còn Cung phi trực tiếp mạng một đạo quân tiến thẳng về quê nội Dưỡng Phúc. Hôm đó là ngày mồng 10 tháng chạp, bà con nô nức kéo đến chào đón nữ tướng và mở hội ăn mừng.

          Bà làm lễ bái yết tổ tiên và hân hoan trò chuyện với dân làng. Gĩa tiệc khao quân, Cung phi ra lệnh chiêu binh, tuyển mộ trai tráng trong làng, trong đó có các thân nhân trong họ Nguyễn vào quân ngũ; lập một hành cung bên bến Mái nơi có thế đất Phượng Hoàng lấy nước nổi tiếng thiêng liêng từ bao đời; dựng Từ Đường làm nơi dân làng cúng lễ hàng năm. Xong việc lớn, Cung phi trở về triều. Sau đó Cung phi sinh hạ được hai trai và một nữ. Hai hoàng tử đều sớm thành đạt giữ tới chức Nôị Các Ngự Sử Đài, vinh hiển giàu sang.

          Năm Cung phi 42 tuổi, bà xin phép về thăm Từ Đường. Được nhà vua ưng thuận, bà lên xe loan xuống thuyền rồng, theo đường thuỷ sông Nhị Hà rồi rẽ sang sông nhánh về quê Dưỡng phúc. Đúng ngọ ngày 11/6/1307 thuyền rồng vừa đưa bà vào bến Mái thì sấm chớp nổi lên rung trời, thuyền bà theo ánh chớp biến vào cõi xa xăm, chỉ còn lại dấu vết là một gò cao từ đất bồi lên hình thanh f một ngôi mộ lớn. Từ đó có tên là gò Mái. Được tin này, Vua vô cùng thương xót. Ngài truyền cho Dưỡng Phúc sửa sang đình và miếu làm nơi thờ cúng tê tự bà. Nhà Vua kí sắc phong người con gái họ Nguyễn tên La là “Vương Phi Công Chúa”, dân Dưỡng Phúc hương hoa tưởng nhớ vào những ngày Công chúa hạ giới môngf 7/3 và ngày bà trở về cõi tiên 11/6 hàng năm.

          Cuốn thần phả soạn vào thời Hồng Đức năm thứ 9 được đặt ở Miếu thờ có đoạn ghi: “Ở xứ gò Mái cạnh Nhị Hà có một ngôi mộ của Cung phi thứ hai vua Trần Anh Tông tên là Nguyễn Thị La, quê cha ở Dưỡng Phúc, quê mẹ ở Dưỡng Hoà, sinh năm 1266 và mất năm 1307 đều tại quê cha”. Trong miếu vẫn còn quả chuông có dòng chữ mang nội dung như trên. Một số hiện vật còn lại trên phần mộ như gạch ngói tren tháp, tiền đồng đều là sản phẩm đặc trưng thời Lý – Trần. Tất cả tư liệu trên là cơ sở để xác minh thần phả, văn bia nói về công tích, lai lịch của Tiên Nương Cung phi Nguyễn Thị La là có độ chính xác tin cậy.

          Ngôi mộ nằm trên gò nổi thuộc cánh đồng Mái rộng 4-5 ha với hình dáng bề thế kiến trúc khác hẳn ngôi mộ cùng thời. Ngôi mộ đã được Viện Khảo cổ học khai quật để nghiên cứu. Tạp chí Khảo cổ học số ra tháng 1 năm 1997 có nhận xét “Ngôi mộ thời Trần ở Dưỡng Phúc, Hải Hưng (nay là Dưỡng Phứ, xã Chính Nghĩa, Huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên) là một ngôi mộ rất đáng chú ý nghiên cứu”.

          Về chùa Dưỡng Phú: Chùa Dưỡng Phú có tên chữ là Khám Vân Tự. Bà con thường gọi nôm na là chùa Phận hay chùa Dưỡng Phú. Chùa kiến trúc kiểu chữ Công. Chưa xác định được niên đại xây dựng nhưng có ghi những lần trùng tu vào thời nhà Nguyễn. Lần tu sửa gần đây nhất là năm 1942 do nhân dân công đức.

          Chùa Dưỡng Phú là nơi bà con thờ Phật, tu tâm tích thiện, đồng thời là nơi thờ Tiên nương- Cung phi Nguyễn Thị La. Một nét đặc sắc khác của chùa là chùa được coi là dấu son trên sơ đồ xây dựng cơ sở cách mạng của huyện Kim Đông. Từ năm 1942- 1943, các đồng chí cán bộ cao cấp của Đảng đã đặt chân phát triển phong trào cứu quốc ra các vùng lân cận. Nhiều gia đình nuôi cán bộ trong nhà, đào hầm cất giấu vũ khí và tài liệu mật. Ngay dưới bệ tượng của nhà chùa cũng đào hầm bí mật để bảo đảm an toàn cho cán bộ và tài liệu cách mạng.

          Các hiện vật còn lưu giữ tại cụm di tích Dưỡng Phú cho đến ngày nay, có thể kể như: 1 quả chuông, 1 cỗ khám, 1 choé và 3 bát hương thời Nguyễn; lăng mộ có tháp đất nung và gạch ngói thời Trần; 1 cuốn thần phả, sắc phong; 1 bệ đá thời Trần ghép bằng những khối đá lớn; 1 quả chuông đúc năm Thiệu Trị thứ hai; 13 pho tượng thời Lê- Nguyễn và một số đồ thờ có giá trị khác.

          Miếu Mái và chùa Dưỡng Phú được Nhà nước xếp hạng cụm Di tích lịch sử và kiến trúc cấp quốc gia theo Quyết định số 295 ngày 12/2/1994 của Bộ Văn hoá Thông tin.

 

 

14. ĐÌNH THỔ CẦU

          Đình Thổ Cầu nằm ở trung tâm thôn Thổ Cầu, xã Nghĩa Dân. Ba mặt khuôn viên đình giáp ao hồ, phía sau là đường, đó là địa thế đẹp nhất của làng.

          Đình được xây dựng để thờ Trần Hưng Đạo, một vị tướng tài ba thời Trần có công trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông xâm lược. Ông được nhân dân đất Việt tôn là Thánh, rất nhiều nơi trên đất nước đã xây dựng đền thờ Ông.

          Tại đình còn diễn ra nhiều sự kiện lịch sử của địa phương. Năm 1945, đình Thổ Cầu là địa điểm bộ đội tập trung đi giành chính quyền ở huyện. Năm 1950, đây là nơi ghi dấu tội ác của thực dân Pháp tàn sát 2 chiến sĩ du kích. Đặc biệt, nơi đây ngày 16.9.1961, bác Hồ đã về thăm và căn dặn cán bộ, nhân dân điạ phương phải gắng sức hơn nữa trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

          Đình Thổ Cầu được xây dựng thời Lê, trùng tu, tu sửa thời Nguyễn niên hiêu Thành Thái thứ 3 (1981) với kiến trúc chữ Đinh gồm 05 gian đại bái, 03 gian Hậu Cung. Đình còn lưu giữ nhiều mảng chạm khắc đẹp mang phong cách kiến trúc thời Nguyễn. Đặc biệt là các bức cốn giang trung tâm tòa đại bái chạm tứ linh đan xen tứ quý như: rồng, phượng, rùa, thông, cúc, trúc, sen, đường nét chạm khoẻ, cân đối. Các bẩy hiên chạm đề tài tứ bình (thông, mai, cúc, trúc), chữ thọ…

          Hiện nay tại đình lưu giữ một số tế tự có giá trị như: hệ thống hoành phi, đại tự, câu đối, bát hương sứ…

          Từ những giá trị trên, đình Thổ Cầu được Nhà nước xếp hạng vào loại hình di tích: “Lịch sử và kiến trúc nghệ thuật” năm 1995.

 

15. ĐÌNH AN XÁ

          Đình An Xá xây dựng theo hướng Tây trên thế đất “con quy” nằm ngay giữa làng An Xá, xã Toàn Thắng.

          Đình thờ An Công, Dực Công là tướng của vua Hùng thứ 18, hai vị có công đánh giặc cứu nước đem lại cuộc sống thanh bình cho nhân dân. Sau khi mất, hai ngài đều hiển ứng giúp nước cứu dân, được nhân dân tôn làm Thành Hoàng làng ngàn năm thờ phụng.

          Đình được khởi công xây dựng từ xa xưa, trải qua các triều đại ngôi đình đều được trùng tu. Kiến trúc hiện nay được giữ nguyên sau lần trùng tu lớn vào năm Bảo Đại Tân Tỵu (1941), kết cấu kiểu “nội công ngoại Quốc” với các hạng mục tương đối đồng bộ gồm: Đại bái, ống muống và hậu cung, hai bên là hai dãy dải vũ. Các mảng chạm khắc được tập trung chủ yếu ở toà đại bái với các đề tài tứ linh, tứ quý rất công phu và tỉ mỉ.

          Đình còn lưu giữ được nhiều hiện vật, cổ vật có giá trị như:5 đạo sắc phong các thời Lê, Nguyễn, choé sứ, nhang án, khám thờ.

          Đình An Xá được Nhà nước xếp hạng di tích: “Lịch sử văn hoá và kiến trúc nghệ thuật” cấp quốc gia năm 1994

 

 

 

 

Kim Động xưa và nay